Để đạt được độ tinh tế cao, lần này Tạ Minh Triết tách Quan Vũ thành hai tấm thẻ, tấm thứ nhất là vẽ nhân vật cưỡi ngựa Xích Thố, tấm thứ hai chính là thanh đao Thanh Long Yển Nguyệt.
Đây là thanh đao nổi danh thời Tam Quốc, cậu cố gắng nhớ lại những miêu tả về thanh vũ khí này trong truyện.
Cán đao được làm bằng gỗ với đường vân kim loại tinh tế, thân đao mang độ cong sắc bén, ở giữa còn nhô lên một cái gai nhọn hoắt —— Tạ Minh Triết dựa theo trí nhớ của mình, tập trung tinh thần vẽ cây đao Thanh Long Yển Nguyệt trông như thật. Cậu cũng điều chỉnh chiều dài và tỉ lệ của thanh đao cho thật tỉ mỉ.
Vì muốn mọi chi tiết phải hoàn mỹ, Tạ Minh Triết sửa tới mấy lần, hơn nửa tiếng mới vẽ hoàn chỉnh. Sau khi hoàn thành hai tấm thẻ, cậu lập tức dung hợp chúng lại, chế thành bản nháp đầu tiên của Quan Vũ.
Nhân vật trên thẻ bài vô cùng phù hợp với suy nghĩ của cậu, Tạ Minh Triết quyết định bản thảo cuối cùng, sau đó là thiết kế kỹ năng cho Quan Vũ.
Thẻ bài trong thế giới thẻ sao được khống chế bởi dữ liệu thông minh, một tấm thẻ bài không thể vừa làm công kích lại vừa làm phòng ngự, phải lệch hẳn về một bên nhất định. Nếu tấm thẻ Quan Vũ này là thẻ công kích đơn, vậy thì phải tăng sát thương gây ra lên đến mức tối cao, là cái loại công kích chém một đao xuống không chặt chết thì cũng phải tàn phế.
Tạ Minh Triết nhớ tới điển tích “Một đao đến gặp” có quan hệ chặt chẽ với Quan Vũ, kể về chuyện Quan Vũ chỉ mang vẻn vẹn một cây đao cùng vài tùy tùng tới tiệc rượu của Lỗ Túc nước Ngô. Về sau thì cụm từ này được áp dụng rộng rãi, biểu trưng cho sự dũng cảm, tinh thần mạo hiểm đơn độc tiến bước.
Nếu là “đơn độc xâm nhập” thì đúng lúc có thể làm thành kỹ năng công kích đơn, dùng một đao chém chết thẻ bài quan trọng của đối thủ.
Kỹ năng còn lại thì nên làm thế nào?
Tạ Minh Triết nghĩ, nếu làm thẻ công kích đơn thì hay là lại làm thêm một kỹ năng hỗ trợ, để công kích của Quan Vũ đạt tới tối đa… Chẳng hạn như không nhìn thuộc tính thủ?
Nếu có thể làm được hai kỹ năng này thì khi Quan Vũ ra tay giết thẻ da mỏng sẽ có khả năng trở thành đập phát chết luôn!
Tạ Minh Triết vô cùng hăng hái, lập tức tập trung kết nối tinh thần vào hệ thống chế thẻ, bắt đầu chế tác thẻ bài từ tất cả nguyên tố đã chuẩn bị trước đó.
Hiện tại cậu vẫn chưa thể điều chỉnh ra được số liệu hoàn mỹ không có khiếm khuyết, về mặt này thì đợi chiều nay anh Trần về rồi nhờ sư phụ hướng dẫn, trước tiên phải thiết kế hình tượng và kỹ năng nhân vật cho thật tốt đã.
Tạ Minh Triết đưa bản nháp Quan Vũ, ngựa Xích Thố, và thanh đao Thanh Long Yển Nguyệt vào để dung hợp thành một tấm thẻ hoàn chỉnh. Dưới sự khống chế của cậu, cây đao Thanh Long Yển Nguyệt vô cùng tinh tế được Quan Vũ nắm chặt trong tay. Sau đó cậu thêm kỹ năng cho Quan Vũ, tạm thời không chú ý tới vấn đề số liệu.
Hệ thống tiến hành xét duyệt, quả nhiên thông qua rất thuận lợi.
Dựa theo cách nói của Trần Tiêu, chỉ cần hình tượng và kỹ năng không phải là hàng sao chép rõ rệt thì bình thường hệ thống đều thông qua. Loại thẻ với công kích đơn dạng này chắc chắn đã tồn tại rất nhiều trong kho dữ liệu rồi, nhưng điểm mấu chốt là nhân vật cưỡi ngựa xuất hiện rất ít trong game, cộng thêm miêu tả kỹ năng khác nhau rất nhiều, nên hệ thống sẽ tự hiểu là thẻ Tạ Minh Triết làm ra có nhiều yếu tố sáng tạo, thế là duyệt cho cậu.
Tạ Minh Triết cầm lấy thẻ bài đã được khắc logo “Nguyệt Bán” trên bàn điều khiển, cẩn thận quan sát ——
Quan Vũ (Hệ kim)
Cấp độ: 1
Cấp sao: ★
Số lần sử dụng: 1/1 lần
Thuộc tính cơ bản:
– Máu: 200
– Công: 700
– Thủ: 200
– Tốc: 20
– Tỷ lệ bạo kích: 30%
Kỹ năng: Một đao tới gặp (Quan Vũ ngắm vào một mục tiêu đối thủ, lúc phóng ngựa hướng thẳng tới mục tiêu tăng tốc 500%, vung thanh đao Thanh Long Yển Nguyệt chém vào mục tiêu, gây ra 300% sát thương hệ kim; thời gian cooldown: 20 giây)
Kỹ năng: Võ Thánh giáng lâm (nội tại) (Quan Vũ trung nghĩa can đảm, được gọi là Võ Thánh, tự động bỏ qua phòng thủ của mục tiêu khi công kích)
Tạ Minh Triết lập tức lấy tấm thẻ Tôn Thượng Hương trên kệ trưng bày ra để so sánh.
Thẻ cấp 1 sơ cấp Tôn Thượng Hương có công kích đơn 200%, lên max cấp là 270%. Thẻ Quan Vũ cấp 1 có sát thương 300%, max cấp lên được khoảng 370%, nếu ép thêm ba tấm thẻ để cường hóa thì công kích có thể lên thẳng tới 400%!
Về thuộc tính cơ bản, đương nhiên sẽ đẩy mạnh công kích, tăng điểm công và tỷ lệ bạo kích lên mức tối đa, không cần để ý tới thủ và máu.
Cứ thế, Quan Vũ bỏ qua phòng thủ có khả năng giết một tấm thẻ bài ngay khi vừa vào trận!
Việc tấm thẻ này được xét duyệt khiến Tạ Minh Triết càng tự tin hơn.
Đã làm xong Quan Vũ thì sao có thể thiếu đại ca Lưu Bị và tam đệ Trương Phi chứ? Dù sao cũng là ba anh em kết nghĩa tại vườn đào mà!
***
Tạ Minh Triết cũng định thiết kế cho Trương Phi thành thẻ công kích đơn giống như Quan Vũ.
Hiện tại cậu cực kỳ thiếu thẻ bài công kích đơn, mà danh tướng chiến đấu bằng đao thật thương thật ở nước Thục khá nhiều. Quan Vũ có “Thanh Long Yển Nguyệt Đao” cấp thần, Trương Phi cũng có “Trượng Bát Xà Mâu” vô cùng nổi tiếng.
Trong sách cũng có ghi chép lại câu chuyện về Trượng Bát Xà Mâu. Tạ Minh Triết nhớ lại thật cẩn thận, là một cây mâu dài chừng khoảng hai mét, đầu mâu uốn lượn theo hình con rắn, mũi mâu có hình trăng lưỡi liềm được rèn vô cùng sắc bén, có thể lập tức đâm xuyên qua thân thể quân địch.
Vũ khí dài hơn hai mét khó mà cầm theo đứng trên mặt đất, đúng lúc có thể sử dụng khi cưỡi ngựa.
Thú cưỡi của Trương Phi không được đặc biệt như “ngựa Xích Thố” nên không có ghi chép chính xác. Nhưng có một giả thuyết, con ngựa của y được gọi là “Ô Vân Đạp Tuyết”, có tính cách vô cùng táo bạo hệt như Trương Phi. Toàn thân ngựa đen nhánh, nhưng bốn vó lại mọc lên một lớp lông trắng, hệt như đang đạp lên một tầng tuyết trắng, cho nên mới có cái tên “Ô Vân Đạp Tuyết”.
Tạ Minh Triết là một fan thâm niên của truyện Tam Quốc, nên tìm hiểu khá nhiều. Hình tượng Trương Phi có tranh cãi rất lớn, nhưng phần lớn lại mang ấn tượng Trương Phi là vị tam đệ Trương Dực Đức thẳng thắn, thô lỗ, dễ nổi giận và bốc đồng trong Tam Quốc Diễn Nghĩa.
Y có mái tóc rậm rạp vô cùng bù xù, bình thường không chú trọng cách ăn mặc, luôn tùy tiện, cực thích rượu, đôi mắt hệt như chuông đồng lớn, khi trợn tròn thì rất đáng sợ.
Y rốt cuộc đáng sợ như thế nào? Chắc hẳn là đã hù chết người.
Tạ Minh Triết nhớ rất rõ sự kiện “đánh gãy cầu Trường Bản”.
Lúc ấy quân của Lưu Bị tại cầu Trường Bản bị đánh cho tan tác. Tào Tháo cấp tốc đuổi đánh một ngày một đêm, sắp sửa đuổi kịp thì Trương Phi cản ở phía sau, đánh gãy cầu, vung lên cây Trượng Bát Xà Mâu quát to một tiếng: “Có Yến Nhân Trương Dực Đức ở đây! Ai dám ra mặt quyết một trận tử chiến?!”. Tướng của Tào Tháo là Hạ Hầu Kiệt đứt ruột vỡ gan, ngã khỏi ngựa, đầu cắm xuống đất chết thẳng cẳng, ý chí chiến đấu của quân Tào tan rã, Tào Tháo bèn phải rút lui.
Chỉ quát một tiếng đã chết người, bức quân Tào lui binh, có thể thấy được tiếng hét và khí thế của Trương Phi vô cùng uy phong.
Tạ Minh Triết định biến tiếng quát của Trương Phi thành một kỹ năng khống chế, dù sao thì tiếng rống này cũng quá lớn, hù chết người là bình thường —— vậy thì làm thành khiến cho mục tiêu sợ hãi.
Thế là, thời điểm Quan Vũ liên thủ với Trương Phi tấn công, trước tiên Trương Phi có thể quát lên một tiếng khống chế một thẻ bài, rồi để Quan Vũ phóng ngựa tới chém, nếu chém không chết thì để Trương Phi đâm thêm một mâu cho chết ngay, rồi lại chuyển sang một mục tiêu khác.
Về phần kỹ năng công kích đơn, Tạ Minh Triết nghĩ tới thiết lập thế này —— Trượng Bát Xà Mâu có thể gây ra sát thương cao cho mục tiêu có lượng máu càng cao, chuyên dùng để đánh đám tank da dày. Chẳng hạn tấm thẻ Người Khổng Lồ Đá hệ thổ, hay cây đại thụ hệ mộc, tấn công chúng bằng đòn đánh bình thường thì như đang gãi ngứa, nhưng với công kích của Trương Phi, máu càng cao thì sát thương gây ra sẽ càng lớn.
Sau khi nghĩ xong hình tượng và kỹ năng, Tạ Minh Triết bắt đầu chế tạo thẻ bài.
Hình tượng nhân vật Trương Phi được thiết kế dựa theo ấn tượng của cậu. Vị tam đệ thẳng thắn bộc trực nhanh chóng xuất hiện trên thẻ bài, vững vàng ngồi trên tuấn mã Ô Vân Đạp Tuyết vô cùng uy phong.
Cậu cũng phân giải thiết kế cây Trượng bát Xà Mâu vào một tấm thẻ khác, vẽ vô cùng tinh tế, đầu mâu mang hình rắn, mũi nhọn sắc bén hình lưỡi liềm, ngay cả chùm tua rua đỏ trên cây xà mâu cũng được vẽ vô cùng tỉ mỉ. Sau khi vẽ xong vũ khí, cậu liền tiến hành hợp nhất hai tấm thẻ bài.
Tạ Minh Triết hoàn thành tất cả những thao tác này, rồi tập trung tinh thần tạo thêm kỹ năng cho thẻ.
Hai mươi phút sau, tấm thẻ ban đầu chưa được điều chỉnh số liệu đã thành hình ——
Trương Phi (Hệ kim)
Cấp độ: 1
Cấp sao: ★
Số lần sử dụng: 1/1
Thuộc tính cơ bản:
– Máu: 200
– Công: 700
– Thủ: 200
– Tốc: 20
– Tỷ lệ bạo kích: 30%
Kỹ năng: Trọng kích (Trương Phi ngắm vào một mục tiêu, phóng ngựa thẳng tới mục tiêu với gia tốc 500%, vung cây Trượng Bát Xà Mâu trong tay lên, đâm thẳng tới nhược điểm của mục tiêu, gây ra 200% sát thương hệ kim, nếu mục tiêu có máu trên 150 ngàn thì tăng thêm một đòn trọng kích, gây thêm 200% sát thương hệ kim; thời gian cooldown: 30 giây)
Kỹ năng: Gào Thét (Trương Phi trợn mắt, gào to với một mục tiêu chỉ định, tiếng thét đinh tai nhức óc khiến mục tiêu lâm vào trạng thái sợ hãi, không thể phóng một kỹ năng nào liên tục trong 4 giây; thời gian cooldown: 30 giây)
Lần này cũng được thông qua xét duyệt.
Tạ Minh Triết thử gọi thẻ bài Trương Phi ra xem một chút —— thẻ bài được gọi ra trong không gian cá nhân cũng có thể phóng kỹ năng, nhưng lại không tạo nên hiệu quả và sát thương nào, chủ yếu là để cho người chế tạo có thể dễ dàng quan sát hiệu ứng của kỹ năng.
Hiệu ứng của kỹ năng do dữ liệu thông minh của nhà phát hành tạo ra dựa theo miêu tả kỹ năng. Chẳng hạn như kỹ năng “Đại Ngọc chôn hoa” của Lâm Đại Ngọc chính là thả cánh hoa lên mặt đất, vô cùng xinh đẹp. Với kỹ năng Trầm ngư, hệ thống sẽ để cho Tây Thi vung lụa mỏng trên tay để giết các loại thẻ cá. Hỏa công của Chu Du và Lục Tốn thì đều dùng thẳng hiệu ứng biển lửa trong kho dữ liệu.
Tạ Minh Triết vô cùng tò mò hiệu ứng của thẻ Trương Phi sẽ được thể hiện như thế nào. Kết quả là vừa mới thả ra, cậu lập tức nghe được một tiếng rống đinh tai nhức óc —— rất tốt! Tiếng rống hệ thống tạo ra này phải nói là có lực uy hiếp không thể chê được! Tiếc là lời thoại gốc quá dài, không thì Tạ Minh Triết cũng muốn cho Trương Phi quát lên lời kịch “Ai dám đấu với ta một trận” vô cùng uy vũ rồi.
Tạ Minh Triết đặt Trương Phi xuống bên cạnh nhị ca Quan Vũ. Mặc dù thẻ bài không có sinh mệnh và ý thức, nhưng Tạ Minh Triết cũng vô cùng vui vẻ khi họ được đoàn tụ bằng phương thức “thẻ bài” này.
Sau đó chính là Lưu Bị, tôi sẽ nhanh chóng đem đại ca tới cho hai người!
Trong ba vị chúa công Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền, thì Lưu Bị chính là hậu duệ thuộc dòng dõi hoàng tộc, xuất thân chính thống, cũng luôn luôn dùng cờ hiệu “phò tá Hán thất”. Ông là một vị vua khoan dung nhân từ, cả đời đuổi theo lý tưởng dùng nhân nghĩa trị thiên hạ. Người ta đồn rằng vì ông quá nhân từ, nên còn từng cảm hóa thích khách ám sát mình.
Dù cho thực lực của nước Thục không bằng nước Ngô và nước Ngụy, nhưng Lưu Bị đối xử với huynh đệ đi theo mình vô cùng tốt. Vậy nên những người như Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân đối với ông chính là trung thần thề sống thề chết.
Nước Thục có rất nhiều tướng mạnh nên Lưu Bị làm chúa công không cần tự thân động thủ. Mà Lưu Bị lại không được xếp vào những danh tướng mạnh mẽ thời tam quốc, cho nên Tạ Minh Triết quyết định chế tạo Lưu Bị thành thẻ hỗ trợ —— giữ vững hậu phương, hỗ trợ cho các võ tướng khác.
Loại thẻ cậu đang thiếu nhất chính là thẻ hỗ trợ giải khống chế.
Lưu Bị khoan dung nhân từ, có thể tạo thành kỹ năng miễn dịch, dùng để phòng ngừa thẻ bài bên ta bị nhằm vào. Chẳng hạn như chống cự một đợt tổn thương khi sắp chết. Khi đánh ở tàn cuộc có thể phối hợp với thẻ trị liệu, nháy mắt cứu lại thẻ bài sắp chết trong đường tơ kẽ tóc.
Về hình tượng của Lưu Bị, ban đầu hoàng thúc họ Lưu khá nghèo túng, sống nhờ vào bán giày cỏ, mặc quần áo rách te tua, vô cùng tiết kiệm. Nhưng sau này khi bái huynh đệ kết nghĩa với Quan Vũ và Trương Phi, mời Gia Cát Lượng xuống núi, người bên cạnh càng ngày càng đông, ông cũng phải thay đổi hình tượng bên người. Nhất là sau khi Tào Phi xưng đế, ông cũng lập tức xưng đế, khí chất đó hoàn toàn khác với ông khi xưa.
Tạ Minh Triết rất thiên vị Lưu Bị, cậu muốn vẽ Lưu Bị trong hình dáng một “quân vương” khi xưng đế sau này. Lúc đó Lưu Bị không còn lang bạt tứ phương, có nước Thục của mình, ông mặc một bộ trường bào màu hoàng kim, đội lên chiếc miện biểu tượng của đế vương, dung mạo ôn hòa từ ái, nhưng cũng không thiếu đi sự uy nghiêm của một vị vua oai hùng.
Làm hoàng đế thì không cần phải mỗi ngày đều động đao múa thương, huống chi Lưu Bị lại không phải là thẻ công kích, vậy nên Tạ Minh Triết không hề vẽ vũ khí của Lưu Bị, nhưng chắc chắn phải vẽ thú cưỡi của ông —— ngựa Đích Lư.
Thứ nhất, cả ba người Lưu, Quan, Trường đều cưỡi ngựa sẽ rất thống nhất; thứ hai, ngựa Đích Lư có một đoạn truyền thuyết khá nổi tiếng, Tạ Minh Triết cũng muốn vẽ con ngựa thần kỳ này cùng với chủ nhân đích thực của nó.
Những miêu tả về “ngựa Đích Lư” trong truyện mang đầy sắc thái thần thoại. Nghe đồn dưới mắt của con ngựa này có một cái bớt hình nước mắt, trên đầu ngựa thì đầy đốm trắng li ti. Những người chủ từng cưỡi con ngựa này đều đã chết, vậy nên nó còn có cái tên là “ngựa sát chủ”.
Lúc ấy Lưu Bị vừa mới tới Kinh Châu nương tựa, có được con tuấn mã này nên định tặng cho Lưu Biểu, kết quả là Lưu Biểu nghe đồn con ngựa có vết bớt có tướng sát chủ, lập tức trả lại Lưu Bị. Cũng có người khuyên Lưu Bị không nên cưỡi con ngựa này, tránh bị nó khắc chết, nhưng Lưu Bị không tin, ngược lại lại vô cùng yêu thích Đích Lư.
Khi Sái Mạo muốn hại chết Lưu Bị, Lưu Bị đã cưỡi Đích Lư chạy trốn, vì quá gấp gáp nên lạc đường, chạy tới suối Đàn Khê. Thấy dòng suối vừa rộng vừa sâu, quân địch lại sắp đuổi tới, Lưu Bị không còn đường lùi, đành phải quất roi phóng ngựa. Vậy mà quả thật Đích Lư đã giúp ông, tung mình nhảy lên trực tiếp bay thẳng tới bờ suối bên kia, khiến quân địch trợn mắt há mồm!
Cũng bởi vì sự tích này mà Đích Lư được thần thánh hóa lên, lúc trước khắc chết chủ nhân là vì những người này quá bình thường, không lọt vào mắt nó. Mà Lưu Bị là chủ nhân nó công nhận, vậy nên nó giúp đỡ Lưu Bị. Ly kỳ hơn chính là sau này vì yêu mến Bàng Thống mà Lưu Bị tặng ngựa của mình cho y, nhưng Bàng Thống lại không có phúc hưởng thụ, vừa cưỡi lên Đích Lư liền bị loạn tiễn bắn chết ở sườn núi Lạc Phượng, giống như là bị Đích Lư khắc chết.
Con ngựa “Đích Lư” được thần thánh hóa của Lưu Bị có lông màu nâu nhạt, đầu lốm đốm trắng, chạy rất nhanh.
Sau khi vẽ xong cả người và ngựa, Tạ Minh Triết cẩn thận thiết kế kỹ năng.
Trong game thẻ sao có quy định, kỹ năng của thẻ bài càng nhiều thì thuộc tính cơ bản sẽ càng thấp. Phần lớn thẻ bài bình thường đều có hai kỹ năng, tối đa lại thêm một kỹ năng liên kết nữa. Đây chính là kinh nghiệm mà rất nhiều tiền bối đã đúc kết ra, bởi vì thẻ bài hai kỹ năng có số liệu cân bằng nhất, chiêu thứ ba làm thành kỹ năng liên kết, không có liên kết thì có thể tăng thêm thuộc tính cơ bản.
Nếu thẻ bài có bốn loại kỹ năng thì thuộc tính cơ bản chắc chắn là hỏng bét.
Nhưng dựa theo ý nghĩ của Tạ Minh Triết, Lưu Bị phải làm thành thẻ có bốn kỹ năng.
Kỹ năng thứ nhất là giải trừ trạng thái xấu trên diện rộng, kỹ năng thứ hai dùng để bảo vệ đồng đội sắp chết, thứ ba là nội tại có thể bỏ qua bất kỳ khống chế nào, và thứ tư đương nhiên là kỹ năng liên kết của ba anh em Lưu Quan Trương.
Nội tại không cần phải khởi động, cũng không có thời gian đóng băng, mà luôn luôn tồn tại. Giống như nội tại “không nhìn kỹ năng cưỡng chế của đối thủ” của Lục Tốn, vĩnh viễn không bị ảnh hưởng bởi những chiêu đặc thù này. Tạ Minh Triết muốn thêm cho Lưu Bị nội tại “bỏ qua khống chế”, không thì nếu đối phương thả chiêu khống chế diện rộng, chính Lưu Bị cũng sẽ bị khống chế, không giải khống chế được thì quá uổng phí rồi?!
Nhưng nếu như vậy thì Lưu Bị sẽ có bốn kỹ năng, số liệu sẽ vô cùng yếu kém.
May mà đây chỉ là thẻ hỗ trợ, thuộc tính cơ bản không ảnh hưởng nhiều, chức năng chính của thẻ này chỉ có giải khống chế, đề phòng đồng đội bị giết chết. Công, thủ, máu của bản thân không cao cũng chẳng sao, chỉ cần gọi ra ở thời khắc quan trọng, bảo vệ đồng đội thật tốt là được.
Sau khi suy nghĩ xong, Tạ Minh Triết lập tức kết nối tinh thần vào hệ thống chế thẻ, bắt đầu chế tạo tấm thẻ Lưu Bị này.
Trên mặt giấy tinh vân nhanh chóng xuất hiện một người đàn ông khoác trường bào hoàng kim tượng trưng cho đế vương, mặc dù tuổi đã cao nhưng lại tràn đầy tinh thần, khóe miệng mang theo ý cười, cho người khác một cảm giác ôn hòa nhân ái. Lưu Bị cũng cưỡi một con tuấn mã màu nâu nhạt tỏa ánh sáng nhàn nhạt dưới những tia nắng ấm áp, đầu ngựa có đốm trắng li ti vô cùng rõ ràng.
Sau khi vẽ xong hình tượng thẻ bài, Tạ Minh Triết liền thiết kế kỹ năng rồi đưa vào kho dữ liệu để xét duyệt.
Lúc chưa có liên kết thì tấm thẻ này đã có ba kỹ năng, khiến Tạ Minh Triết gần như hao sạch tinh thần, hoàn toàn không có tinh lực phân phối số liệu, thuộc tính cơ bản phải nói là nát bét.
Lưu Bị (Hệ kim)
Cấp độ: 1
Cấp sao: ★
Số lần sử dụng: 1/1
Thuộc tính cơ bản:
– Máu: 200
– Công: 100
– Thủ: 200
– Tốc: 10
– Tỷ lệ bạo kích: 10%
Kỹ năng: Khí thế đế vương (Lưu Bị ôn hòa khoan dung, khi thả kỹ năng, tất cả thẻ bài trong phạm vi sẽ được giải trừ toàn bộ trạng thái xấu, 3 giây sau cũng sẽ miễn dịch bất kỳ loại khống chế nào; thời gian cooldown: 30 giây)
Kỹ năng: Vị vua nhân từ (Lưu Bị tạo khiên hệ kim cho một đồng đội chỉ định liên tục trong 5 giây, trong thời gian tồn tại khiên, đồng đội chỉ định sẽ được tăng 20% lực sát thương, cũng có thể kháng lại một lần tổn thương trí mạng, sau khi kháng thì khiên sẽ nát vụn; thời gian cooldown: 40 giây)
Kỹ năng: Đích Lư hộ chủ (nội tại) (ngựa Đích Lư bảo vệ chủ nhân trong tình trạng nguy cấp, Lưu Bị không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ hiệu quả khống chế nào, ngựa Đích Lư phóng lên cao sẽ tự động giải trừ khống chế cho Lưu Bị, cũng gia tốc lên 500%)
May mà thông qua xét duyệt!
Tạ Minh Triết thở phào thật dài, nhìn tấm thẻ Lưu Bị với ánh mắt đầy phấn khích.
Nội tại có thể bảo đảm cho Lưu Bị vĩnh viễn không bị khống chế, kỹ năng thứ nhất lại là giải khống chế, miễn khống chế diễn rộng, dưới điều kiện tạo thành từ nội tại này thì ông mới có thể bảo vệ những đồng đội khác. Huống hồ kỹ năng thứ hai còn có thể kháng lại tổn thương trí mạng —— tấm thẻ Lưu Bị này phải nói là thẻ hỗ trợ đa dụng, đặt vào set thẻ nào cũng đều có thể vào trận làm tấm khiên vững chắc cho phe mình.
Ba tấm thẻ nước Thục Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi đã hoàn thành!
Dù là số liệu có vẻ không ổn lắm, chưa đạt được độ hoàn mỹ, nhưng kỹ năng đã được thiết kế hoàn toàn dựa theo suy nghĩ của Tạ Minh Triết.
Sau đó chính là kỹ năng liên kết.
Không cần nghĩ tên, Lưu Quan Trương, đương nhiên sẽ là “kết nghĩa vườn đào”, chính là điển tích kết bái huynh đệ của ba người.
Quan Vũ và Trương Phi đều là thẻ bài công kích đơn, như vậy thì cứ thiết lập kỹ năng liên kết Kết nghĩa vườn đào khiến công kích của bọn họ phát huy tới mức tối đa đi. Ba thẻ liên kết thì nhất định cả ba phải cùng lúc tồn tại, sau này Tạ Minh Triết sẽ tìm cơ hội gọi cả ba thẻ Lưu Quan Trương lên đấu trường.
Việc có thể tăng thêm kỹ năng liên kết sau khi hoàn thành toàn bộ thẻ bài vô cùng tiện lợi cho Tạ Minh Triết. Cậu nhanh chóng tập trung suy nghĩ, đặt ba tấm thẻ song song với nhau trên bàn điều khiển, rồi kết nối tinh thần vào hệ thống chế thẻ.
Tạo thêm kỹ năng liên kết cho thẻ bài phải tập trung tinh thần rất cao, từ từ thêm kỹ năng vào từng tấm thẻ một. Cậu đã vô cùng quen thuộc quá trình này.
Góc phải phía dưới ba tấm thẻ nhanh chóng xuất hiện biểu tượng “liên kết hệ kim” có hình dạng một thanh kiếm sắc bén, bên dưới cũng được miêu tả thêm kỹ năng liên kết ——
Quan Vũ: Kết nghĩa vườn đào (liên kết) (nếu đấu trường có mặt Trương Phi, Lưu Bị, thì công kích cơ bản tăng lên 50%)
Trương Phi: Kết nghĩa vườn đào (liên kết) (nếu đấu trường có mặt Quan Vũ, Lưu Bị, thì sát thương gây ra tăng thêm 50%)
Lưu Bị: Kết nghĩa vườn đào (liên kết) (nếu đấu trường có mặt Quan Vũ, Trương Phi, Lưu Bị sẽ chủ động thả ra kỹ năng Kết nghĩa vườn đào, thiết lập lại toàn bộ thời gian đóng băng kỹ năng, chỉ có thể dùng một lần)
Quan Vũ và Trương Phi đều là hiệu quả bị động, chỉ cần có mặt đủ thẻ bài thì lập tức khởi động.
Kỹ năng liên kết của Lưu Bị lại khá là đặc sắc, có thể để Lưu Bị tự chủ động thả ra, thiết lập lại thời gian đóng băng của Quan Vũ và Trương Phi.
Có nghĩa là: Nhị đệ tam đệ, đại ca tới đây, mấy đứa giết người xong chưa? Chưa xong thì chúng ta lại giết thêm đợt nữa nào!
‿︵‿︵‿︵‿︵‿︵‿︵‿︵‿
Mình giải thích thêm về “công kích cơ bản” và “sát thương gây ra”.
“Công kích cơ bản” chính là thuộc tính công cơ bản của thẻ bài, ở chương này thì công cơ bản của Quan Vũ cấp 1 chính là 700.
“Sát thương gây ra” là điểm sát thương tạo thành gây ra cho đối thủ, điểm này đã nhân với tỷ lệ bạo kích, trừ điểm thủ của mục tiêu và cộng trừ các yếu tố khác nếu có từ kỹ năng của mình và mục tiêu. Hai thuộc tính này là khác nhau.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận