Cũng như những thành phố khác ở miền nam nước Việt, thành phố Châu Đốc vào mùa nắng như bị thiêu đốt dưới ánh mặt trời và khoác thêm một lớp bụi làm mờ mắt. Nhưng tôi không khó chịu, bởi vì tôi sinh ra ở đó. Trong ký ức, hình ảnh khu vườn và xưởng dệt vải của cha tôi đã làm tôi sống lại những ngày sung sướng trong thời thơ ấu.
Hồi đó, cha tôi, Ông Xếp – ai cũng gọi như vậy – rất giỏi về kinh doanh. Người giúp việc trong nhà tôi là bà An thường kể cho tôi nghe rằng hôm tôi chào đời lại đúng cái hôm cha tôi bận việc giao dịch buôn bán ở một tỉnh xa. Ông được tin tôi mới sinh cùng một lúc được tin có một khách hàng ở Bạc Liêu quỵt nợ một số bạc hơn bốn trăm ngàn đồng. Thực khó mà hiểu tâm trạng của ông lúc ấy. Không biết ông vui với cái tin có thêm thằng bé Lênh Đênh – tức là tôi – hay là buồn vì bị khách hàng bỏ trốn. Tôi thương cho cha tôi quá, nhưng thương mà không biết biểu lộ bằng cách nào !
Tôi như một kẻ sinh ra để chứng kiến những rủi ro xảy đến cho gia đình tôi.
Mà thực vậy, sau vụ người khách hàng ở Bạc Liêu ẵm mất số bạc to lớn đó thì tiếp đến nhà tôi bị hai lần hỏa hoạn, chú tôi là ông Ba Tiết lại bỗng sinh mối bất hòa với cha tôi. Sau nữa, cha tôi bị mấy người buôn thuốc nhuộm kiện ra tòa. Và cuối cùng, thời cuộc đã làm ngưng trệ công việc làm ăn.
Từ ấy, xưởng dệt của cha tôi như một người bệnh đã kiệt sức, những hoạt động cứ mỗi ngày một bế tắc cho đến hai năm sau phải đành dẹp bỏ và để gìn giữ cái gia sản đổ nát này, cha tôi mướn người gác cổng tên Cốm, cho người ấy ở căn nhà cạnh góc sân của xưởng với đứa con trai bé bỏng của ông ta tên là thằng Cu Nghé.
Bấy giờ, tôi được sáu, bẩy tuổi gì đó, nhưng cha mẹ tôi vẫn không cho tôi đến trường, có lẽ tại tôi thường đau yếu. Mẹ tôi dạy cho tôi biết đọc, biết viết, biết một vài khoa học thường thức khác. Thành thử, tuy đã lớn, mà tôi hãy còn lẩn quẩn trong nhà, và nhờ đó, tôi biết rõ từng cảnh tượng đau buồn của gia đình tôi. Có điều, biết mà không thông cảm được nỗi đau buồn đến mức độ nào, tôi chỉ xem sự đau buồn như một sự thay đổi đồ chơi nên không lấy gì làm khó chịu cho lắm.
Tôi nói với thằng Cu Nghé :
- Mày biết tại sao tao có quyền chạy nhảy trong xưởng bất kể giờ giấc không ?
Cu Nghé tần ngần rồi lắc đầu.
Tôi tiếp :
- Có vậy mà mày không hiểu. Vì xưởng này đã thuộc về tao rồi. Mày thấy không, ngày trước tao còn nhỏ nên chỉ được chạy nhảy trong xưởng vào ngày chủ nhật, ngày lễ mà thôi.
Cu Nghé chớp chớp mắt như cố nhớ lại sự kiện đó.
- Ừ nhỉ ! Cu Nghé nói.
Tội nghiệp cho nó và cả cho tôi. Trí óc non nớt của chúng tôi đã suy luận sự khánh tận một xưởng dệt bằng những ý nghĩ ngây ngô nhất và cũng dại dột nhất.
Trong khi đó, cha tôi đâm ra thay đổi tính nết, lúc nào cũng gắt gỏng, la rầy lớn tiếng khiến ai cũng khiếp sợ. Ấy vậy mà, cha tôi lại không hề lưu ý đến những tiến triển chung quanh bởi ông chỉ nghĩ đến một việc là sự nghiệp đã tiêu tan và tiếc nuối.
Ông luôn luôn mang vẻ mặt lầm lì nên không ai dám đến gần, và cũng chẳng ai dám hỏi han.
Tất cả trong nhà đều nín câm. Nếu có muốn nói, chúng tôi phải nói thầm hoặc kê miệng vào tai thủ thỉ, nghe tiếng được, tiếng mất.
Nhìn cha tôi, mọi người đều xúc động.
Mỗi bữa ăn, khi cha tôi ăn xong và lầm lũi bước đi là không một ai có thể cầm nước mắt được.
Hình dáng tiều tụy của ông đã làm chúng tôi đau xót : Mẹ tôi khóc, bà An khóc, anh Giác tôi khóc, tôi khóc và cả đến anh Cả của tôi, một tu sĩ, thỉnh thoảng về thăm nhà, cũng khóc. Thế rồi khóc hoài thành vô nghĩa hình như rốt cuộc chỉ có mẹ và anh Cả tôi là đau xót thật tình mà khóc. Còn bà An thì có lẽ thấy mẹ tôi khóc nên phải cố mà khóc theo. Còn tôi và anh Giác – anh ấy chỉ lớn hơn tôi có hai tuổi – thì chắc là muốn khóc vào cho đông đủ, cho có phần góp với mọi người cho vui bởi vì tôi biết rõ anh Giác hơn ai hết.
Anh Giác quả là một đứa bé nhiều nước mắt một cách rất đặc biệt. Anh khóc rất dễ dàng như người ta nhổ nước bọt, muốn khóc lúc nào cũng được – Buổi mai, buổi chiều, ban đêm anh đều khóc được.
Có lần, thấy anh khóc, người ta hỏi :
- Sao vậy ?
Anh Giác sụt sùi :
- Dạ, không sao cả !
Mà thực, anh ấy đã nói thực, nhưng khổ nỗi người ta lại ngẩn ngơ.
Đôi khi, cha tôi bực mình, bảo mẹ tôi :
- Bà hãy xem, kìa đôi mắt thằng Giác lúc nào cũng đỏ thế là thế nào ? Người với ngợm gì mà như trái mít ướt thế hở ?
Mẹ tôi ôn tồn trả lời. Nghe giọng bà, người ta có cảm giác êm ả như đang an ủi cha tôi sau một lần buôn bán thua lỗ.
- Thôi mà ông, biết làm sao bây giờ. Cha mẹ sinh con, Trời sinh tánh, lớn chắc nó hết tánh đó, chắc cũng như tôi, hồi nhỏ tôi cũng dễ khóc như nó vậy…
- Trời ! Cha tôi kêu lên, nhưng không có nghĩa phản đối gì hết. Có lẽ ông cũng tin ở lời mẹ tôi.
Ngược lại. Anh Giác càng lớn càng khóc nhiều hơn.
Anh ấy đúng là đứa bé thực kỳ cục. Nguồn nước mắt của anh thật vô tận và lúc này, lúc mà gia đình tôi khánh tận này chính là một cơ hội tốt cho anh tha hồ khóc suốt ngày này qua ngày khác mà không hề bị ai chú ý hoặc quở trách.
Riêng tôi, tôi nghĩ, nếu tôi không khóc thành tiếng thì sẽ lộ chân tướng đang sung sướng nhờ sự khánh tận mà khỏi bị kiềm giữ nên tôi khóc.
Do đó, khóc xong là tôi đi chơi với thằng Cu Nghé, vào khắp các phòng máy trống rỗng, vắng vẻ. Những bước chân chúng tôi khua động như khua động trong một đền đài rộng lớn và chạy nhảy ở đó chán, chúng tôi lại ra sân cỏ múa may.
Chúng tôi đặt ra những trò chơi thích thú và thằng Cu Nghé đúng là mẫu người bạn lý tưởng của tôi. Nó mới mười hai tuổi mà mạnh như bò nhưng lại lùn như vịt và có tánh trung thành như con chó. Đã thế, nó lại có nhiều biệt tài và rất duyên dáng. Ông Cốm, cha nó đặt tên là Cu Nghé hẳn phải có một lý do chắc không ngoài lý do đầu nó trùi trụi như đầu con trâu con. Tôi thường cùng Cu Nghé chơi trò Tạc Dăng. Tôi làm Tạc Dăng. Nó làm thú dữ. Nó có thể giả tiếng thú dữ gầm thét, không biết ai dạy nó, đôi lúc nghe như thật, đến phát sợ.
Lẽ dĩ nhiên, người điều khiển trò chơi Tạc Dăng là tôi. Tôi làm Tạc Dăng dù chỉ biết độc mỗi tiếng hú mà mới nghe người ta tưởng chó điên tru ; còn Cu Nghé thì lúc làm cọp, lúc làm khỉ… nói chung là làm những con vật trong rừng và đôi khi nó vẽ mặt vằn vện để làm mọi.
Cứ thế, cả hai chúng tôi say sưa đùa chơi.
Chúng tôi muốn làm thực giống Tạc Dăng, thực giống mọi như tôi đã đọc trong sách vào những buổi tối. Kể ra trí óc tưởng tượng của tôi cũng phong phú lắm. Tôi cùng thằng Cu Nghé đã tự lột hết áo quần rồi lấy lá chuối khô đeo tòn ten dưới háng : như vậy, thoạt nhìn chẳng khác nào quấn khố da thú.
Tôi cũng đã tưởng tượng rằng khu vườn quanh xưởng thợ là một vùng thâm sơn cùng cốc và mỗi cái nhà là một hang động hoang vu.
Thằng Cu Nghé khâm phục tôi ra mặt. Nó vâng lời và kính trọng tôi y như là được vâng lời, kính trọng một kẻ siêu phàm. Tôi bắt nó làm gì nó cũng làm, dù là bắt nhận lãnh một nhiệm vụ hài hước nhất : Cỡi trên lưng nó, khớp cương vào miệng nó… Tôi là Tạc Dăng mà. Phải đóng vai bá chủ chứ. Phải tỏ mình có biệt tài… Nhưng thằng Cu Nghé lại cũng chẳng chịu kém. Nó đã làm tôi phát sợ mỗi khi cất tiếng gầm thét, không biết nó học ở đâu mà giống tiếng thú đến thế.
- Này, đừng làm giống thực quá tao ghê lắm. Tôi bảo nó. Vậy mà nó vẫn làm già. Nó nổi hứng dùng nhiều tiếng mà tôi chưa hề nghe, nhưng tôi cũng nói theo, lâu dần thành quen miệng cùng một lúc tính tình cũng thay đổi. Tôi bạ đâu nói đấy, lấc ca lấc cấc như những đứa trẻ lêu lổng ngoài đường phố. Và rồi một hôm – hôm đó đang ngồi trong bàn ăn – tôi buột miệng thốt ra nhiều câu tục tằn làm cả nhà sửng sốt. Mọi người đều quay lại nhìn tôi như nhìn một hiện tượng vô cùng quái gở.
- A… cái thằng này !
- Ai dạy mày thế hở ?
- Thôi nguy rồi. Quá lắm rồi. Phải gửi cho anh nó dạy nó mới được…
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận