Rồi đây, khi đã đặt chân lên đất Saigon thì chắc là sự cô độc này sẽ rõ ràng hơn. Lạ cảnh, lạ người, không bạn bè, không thân thích, tôi sẽ thui thủi một mình và nhớ không sót một chuyện nhỏ nhặt nào đã xảy ra ở chung quanh cái thế giới Tạc Dăng ấy. Chắc tôi sẽ có dịp nghiền ngẫm những cử chỉ ngây ngô và ân hận về những hành động dại dột.
Bây giờ tôi mới hiểu rằng không có cuộc chia ly nào lại không buồn.
Mọi việc xảy ra dồn dập, không kịp để suy nghĩ, chúng tôi xuống tàu và kéo dài cuộc hành trình đến những ba ngày lênh đênh trên mặt sông với cái náo nhiệt trên tàu : đoàn thuỷ thủ, hành khách, tiếng động cơ, tiếng còi máy, viên thuyền trưởng tên Lê Niên, người đầu bếp tên Lý Mạc… Những thứ đó xoáy sâu vào cảm giác tôi, có lẽ đến chết vẫn còn nhớ.
Tôi ngồi tại mũi tàu – Suốt ngày tôi ngồi ở đó, trừ giờ ăn và giờ ngủ – gần chiếc dây neo, gần chỗ treo cái chuông báo hiệu mỗi khi tàu vào bất cứ thành phố nào, và ngồi giữa một đống dây chất ngổn ngang để nhìn cảnh vật chung quanh.
Tôi đặt cái lồng chim két vào giữa hai đầu gối và nheo mắt nhận định bóng lờ mờ của hai bờ sông.
Dòng An Giang quá rộng, nhưng không thỏa mãn, lòng tôi vẫn ao ước nó rộng hơn nữa, rộng lớn như đại dương để có cảm tưởng mình là Kha Luân Bố đi tìm Tân thế giới.
Tôi ngửa mặt đón gió mát.
Những con thuyền xuôi gió chạy rẽ nước như mũi dao bén nhọn rạch tấm thảm xanh, và sóng nước nhấp nhô như những ngón tay dài trên dương cầm.
Một vài con thuyền băng ngang sông chở mấy người trai đánh cá giơ tấm lưng trùng trục tắm nắng, đôi cánh tay trần, bắp thịt nổi từng cuộn, vừa chèo, vừa hát hò, vô tư…
Thỉnh thoảng, con tàu mang chúng tôi lại phải chạy dọc theo một cồn đất giống như một hoang đảo, cây cối um tùm.
- Trời ơi ! Tôi buột miệng. Không chừng giang sơn này là của Tạc Dăng.
Và cứ như thế, tôi bị trời nước bao la cuốn hút. Tất cả đều mới lạ, đều hấp dẫn, say mê.
Đối với tôi, đó là chuyến đi cho tôi nhiều thích thú nhứt, những thích thú bất ngờ vì cái gì cũng làm tôi ngạc nhiên.
Thế rồi, cuối ngày thứ ba, trời đang sáng bỗng nhiên sương mù giăng dầy đặc, trước mũi tàu một ngọn đèn dầu rất lớn được thắp lên để soi lối đi. Cảnh tượng ấy thoạt nhìn như có vẻ huyền bí đến phát sợ và làm tôi hoang mang.
- Đến Saigon rồi bà con ơi ! Tiếng reo đó vang bên tai tôi cùng một lúc tiếng chuông rung liên hồi.
Thì ra, con tàu đã vào thành phố. Và tôi bắt đầu lấy lại bình tĩnh.
Tôi nhìn qua lớp sương mờ có ánh đèn chiếu lập loè dọc hai bên bờ sông.
- Chắc đó là Saigon . Tôi lẩm bẩm.
Lòng tôi bấy giờ nghe rộn rã lạ thường.
Trên tàu, mọi người chen nhau tìm hành lý, lao xao, ồn ào như chợ vỡ và các thủy thủ thì làm việc không ngừng. Họ vừa lăn mấy cái thùng tô nô vào một góc tối, vừa điều khiển ống khói hạ thấp xuống mỗi khi tàu chui qua một gầm cầu, nhả từng luồng khói đen đặc, nghẹt thở, gắt cổ đến phát ho. Tất cả hỗn độn không tưởng tượng được. Đã vậy, tự nhiên, trời lại nổi cơn mưa.
Tôi vội vã đi kiếm mẹ tôi.
Tôi phải khổ cực lắm mới đến được mũi tàu phía bên kia vì mẹ tôi đang đứng ở đó với anh Giác, bà già An và đúng lúc ấy thì tàu cập bến.
Chúng tôi xúm xít nhau dưới cái dù của bà già An, ngơ ngác chưa biết phải làm gì khi hành khách đã lũ lượt lên bờ.
Tôi định hỏi mẹ tôi “mình cũng lên chứ mẹ ?”. Nhưng chưa kịp hỏi thì có tiếng cha tôi gọi, không biết ông đi đón từ lúc nào.
- Mẹ con nó ơi ! Tiếng gọi ấy không khác nào vị cứu tinh. Chúng tôi mừng ra mặt.
Cha tôi len lỏi giữa đám người đang rời con tàu để tiến về phía chúng tôi.
- Mệt không ? Đó là câu hỏi đầu tiên của ông khi ôm nhẹ chúng tôi vào lòng.
- Thôi, về nhà rồi hãy nói chuyện. Này… hãy đi theo tôi. Cha tôi nói với mẹ tôi, với bà An, rồi một tay nắm tay anh Giác, một tay nắm tay tôi mà dắt đi. Coi chừng trợt đấy !
Mà thật, cầu tàu trơn ướt, chúng tôi đi thực cực nhọc, và trời lại tối, mỗi bước đi thỉnh thoảng lại vướng phải mấy cái thùng để bừa bãi.
- Này… Phải cẩn thận kẻo té ! Cha tôi lại ra lệnh.
Đàn ông có khác, tôi nghĩ, hành động đàn ông bao giờ cũng đáng tin cậy, những ý nghĩ này bỗng bị đứt quãng vì tiếng kêu réo ở trên tàu.
- Tạc Dăng ! Tạc Dăng !
Tôi giựt mình. Đúng là tiếng một con chim học nói, con két của tôi. Tôi cố rút tay ra khỏi tay cha tôi để chạy lại tìm nó. Khổ nỗi, ông tưởng tôi trợt chân nên càng giữ chặt tôi hơn và tiếng kêu réo đó lại dữ dội hơn.
- Tạc Dăng ! Tạc Dăng ! Hỡi Tạc Dăng đáng thương !
- Trời ơi, con két của tôi. Tôi bỏ quên con két. Bây giờ thì tôi không thể im lặng được nữa. Tôi vùng khỏi bàn tay cha tôi và la to lên như thế.
- Hả ? Bữa nay nó biết nói rồi hả ? Anh Giác tôi cũng quýnh lên, anh hỏi dồn với đôi mắt mở lớn.
- Làm cái gì ồn thế ! Cha tôi rầy át đi rồi trấn an. Mai hãy lại tìm nó. Đồ đạc bỏ quên trên tàu không bao giờ mất đâu mà sợ. Cha tôi nói chắc phải đúng, tôi tin vậy. Hơn nữa, viên thuyền trưởng Lê Niên đã ra lệnh thủy thủ nhổ neo gấp và chúng tôi cũng đã đi khỏi bến tàu quá xa rồi.
Ấy vậy mà, tôi vẫn khóc sướt mướt. Linh tính cho tôi biết không bao giờ còn gặp con két ấy nữa.
Mà thực, con két ấy đã vĩnh biệt tôi thực.
Sáng hôm sau trở lại tìm nó, không thấy nó đâu cả, tôi đau khổ vô cùng.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận