Để đưa hài cốt Bồ Tả Trung lang tướng, sứ thần của Đế quốc, từ vùng hoang nguyên của kẻ địch dị tộc, nơi ông đã hy sinh, trở về quê hương.
Đây chính là lý do duy nhất mà Bồ Châu có thể nghĩ đến, một lý do có lẽ đủ để khiến hắn động lòng.
Sở dĩ nàng đưa ra phán đoán này là vì có căn cứ riêng.
Chưa nói đến chuyện xảy ra ở phủ Đô úy, thì trước đó ở dịch xá Phúc Lộc, hắn từng tự thừa nhận hắn đưa tiền cho nàng là vì kính trọng phụ thân nàng. Việc tiếp theo chính là vụ phản loạn gần đây ở Hà Tây và Thiên Thủy. Hai chuyện này đủ để thấy rằng, dù hắn ham mê quyền lực, mưu tính bức cung đoạt vị, nhưng một khi liên quan đến đại nghĩa quốc gia, hắn vẫn là người đáng để tin cậy.
Hắn được phong làm Tây Hải vương, danh nghĩa là trấn thủ biên cương, nhưng thực chất chỉ là một vị thân vương nhàn tản. Có lẽ ý định ban đầu của Hoàng đế là khiến hắn phải ngoan ngoãn ở lại trong lãnh địa của mình
Không thể trách Hoàng đế lại cảnh giác với hắn đến vậy. Với những chuyện hắn đã làm trước đây, đổi lại là bất kỳ vị Hoàng đế nào, e rằng cũng không thể làm ngơ.
Vậy nên, là một người thân phận nhạy cảm, ngoài những chuyện thuộc phạm vi Tây Hải, những việc khác dù có nghe phong thanh, lựa chọn sáng suốt nhất, hoặc nói cách khác, lựa chọn khôn ngoan nhất để bảo toàn bản thân, chính là khoanh tay đứng nhìn, không can thiệp, cứ mặc cho mọi chuyện loạn đến đâu thì loạn, coi như không biết gì là xong.
Bồ Châu hiểu rõ đạo lý này, nàng không tin Lý Huyền Độ lại không hiểu.
Nhưng hắn đã làm gì?
Hắn đã kịp thời gửi thư cảnh báo trung ương, nhờ vậy mới ngăn chặn được một cuộc đại loạn có khả năng kéo dài tại hai vùng đất đó.
Điều này có nghĩa là gì? Chắc chắn không phải vì hắn ngu ngốc đến mức ấy, mà là bên cạnh dã tâm mưu đoạt ngai vàng, người này vẫn còn giữ chút khí tiết đặt quốc gia lên hàng đầu, vẫn còn vẹn nguyên huyết thống hoàng tộc với lòng can đảm và trách nhiệm đáng lẽ hắn buộc phải có.
Định mệnh đã để hắn trở thành kẻ địch của nàng trong tương lai, Bồ Châu không có ý định đi tìm hiểu sâu suy nghĩ của hắn. Nhưng chút “khí tiết” ấy của hắn, giờ lại chính là điểm yếu mà nàng có thể lợi dụng.
“Điện hạ, năm ấy phụ thân ta đã hy sinh ở Ô Ly cách xa vạn dặm, ngay cả di thể cũng không được đối xử đúng mực. Ta nghe nói, có một người đồng hương từng bại trận đầu hàng, vì không đành lòng nên đã lén ra tay tương trợ, nhờ vậy phụ thân ta mới được mai táng ở hoang nguyên. Ông ấy đã dâng hiến mạng sống cho hoàng triều Lý thị và Đế quốc, nhưng suốt bao năm qua, các người đã báo đáp ông ấy thế nào? Chưa nói đến việc nghênh đón người trở về, ngay cả đứa con gái duy nhất còn lại của người cũng bị lưu đày oan suốt tám năm!”
“Ta có một tâm nguyện, chinh phạt Ô Ly, mang hài cốt của phụ thân trở về cố quốc! Chẳng lẽ ông ấy không xứng đáng nhận được đãi ngộ tối thiểu này hay sao? Vì vậy, ta khẩn cầu điện hạ, hôm nay ngài không chỉ giúp ta, mà còn giúp một trung thần đã hiến dâng sinh mệnh vì hoàng triều Lý thị và Đế quốc, Bồ Tả Trung lang tướng, giúp ông ấy có thể trở về quê hương, hợp táng cùng thê tử mà ông ấy yêu thương, được hưởng tế tự hương khói, chỉ vậy mà thôi!”
Gió lớn gào thét tràn vào từ cửa sổ phía Tây, màn lụa xanh bên người Bồ Châu cuộn tròn trong cơn lốc. Lý Huyền Độ đứng trước cửa đại điện phía trước, vẫn quay lưng về phía nàng. Một lúc lâu sau, Bồ Châu thấy hắn từ từ xoay người lại, ánh mắt chăm chăm nhìn về phía nàng.
“Vậy nên, cô muốn làm Thái tử phi?” Hắn lên tiếng, giọng trầm thấp.
“Phải, và sau đó trở thành Hoàng hậu! Quyền lực là thứ tối thiểu nhất! Chỉ khi có nó, ta mới có hy vọng thực hiện tâm nguyện của mình!” Nàng đáp, không chút né tránh, thậm chí còn không chớp mắt.
Trong điện lại rơi vào tĩnh lặng, bên tai chỉ còn tiếng gió rít gào không ngừng.
Bồ Châu chờ đợi thêm chốc lát, nhìn bóng dáng trước với tà áo rộng bay phấp phới trước cửa điện, nhẹ giọng hỏi: “Điện hạ, ngài có thể giúp ta thêm lần nữa được không?”
Ngoài cửa sổ chợt lóe lên một tia chớp, rồi một tiếng sấm rền vang cuộn qua đỉnh đầu. Cơn mưa trút xuống như thác đổ, hắt xiên vào từ ô cửa lớn, nhanh chóng làm ướt bậu cửa và sàn nhà. Nước mưa thấm dần, loang ra thành vệt lớn.
Lý Huyền Độ quay người lại, hai tay chắp sau lưng, đứng sừng sững trước cửa điện. Đôi mắt hắn đỏ au, lạnh lùng hỏi: “Cô muốn ta giúp thế nào?”
Bồ Châu như trút được gánh nặng trong lòng, vội đáp: “Nghe nói mấy hôm sau đại thọ của Thái hoàng Thái hậu sẽ tiến hành chọn ra Thái tử phi. Kế sách ta đã nghĩ xong cả rồi. Đợi qua đêm đại thọ, ngài giúp ta giấu Thế tử đi, Trưởng công chúa mất con, nhất định sẽ rối trí, còn đâu tâm trí để nhúng tay vào chuyện này? Đợi lễ tuyển phi kết thúc, ngài thả thế tử ra là được.”
“Cô tự tin quá nhỉ, giờ đã chắc chắn mình sẽ được chọn làm Thái tử phi rồi sao?” Giọng hắn nhẹ bẫng.
Bồ Châu đáp một cách mập mờ: “Tận nhân lực, tri thiên mệnh.”
Đợi đến khi phe của Trưởng công chúa phá hỏng chuyện của nữ nhi Trần gia trong tiệc mừng thọ của Khương thị thì “giấu” Hàn Xích Giao ngay lập tức. Như vậy, lúc nàng được tiến cử làm Thái tử phi, Trưởng công chúa chưa tìm được con trai thì lòng dạ đâu để gây ra khó dễ?
Đương nhiên “giấu” nghĩa là gì không cần nàng nói rõ, Lý Huyền Độ thông minh như vậy lẽ nào lại không hiểu ra
Nàng hơi ngừng rồi nói tiếp: “Nếu tự ta sắp xếp việc này, chưa chắc không thành, nhưng e rằng có chút khó khăn. Hơn nữa, với thân phận của thế tử, ta lo sơ sẩy sẽ để lại hậu hoạn. Trái lại, chuyện này với điện hạ dễ như trở bàn tay, nhất định sẽ khiến người ta không thể tra được bất kỳ dấu vết nào.”
Lý Huyền Độ mím chặt môi, hồi lâu sau mới lên tiếng, khóe môi nhếch thành một đường cong lạnh nhạt: “Cô còn nhỏ nhưng để đạt được mục đích, từ trước đến nay đều không từ thủ đoạn?”
Bồ Châu không đáp, chỉ nói: “Điện hạ, lần này ngài chịu giúp ta, về sau nếu như ta thuận lợi thượng vị, ngài cần gì ta đều có thể hết lòng hỗ trợ ngài. Dù sao đi nữa ngài cũng đang nắm điểm yếu của ta trong tay, không phải thế sao?” Giọng điệu của nàng hết sức chân thành.
Lý Huyền Độ không nói gì thêm, chỉ lẳng lặng nhìn nàng.
Bồ Châu lo nếu còn trì hoãn chắc chắn quản sự và tỳ nữ Quách gia sẽ tỏa ra tìm nàng khắp nơi, liền nói: “Điện hạ, vậy rốt cuộc ngài có đồng ý không? Hãy cho ta một lời khẳng định. Nếu ngài không muốn giúp ta, ta sẽ tự tìm người khác. Ta biết từ trước đến nay ngài luôn chăm lo hậu bối, ngài yên tâm, ta tuyệt đối không làm ra chuyện gì bất lợi đối với Hàn Xích Giao, chỉ khiến hắn không thể lộ diện vài ngày thôi…”
“Cô chỉ cần ở yên trong Quách phủ!”
Hắn bỗng lên tiếng, cắt ngang lời nàng, giọng điệu cứng rắn.
Bồ Châu lại thở phào một hơi, cảm kích nói: “Đa tạ điện hạ, vậy ta xem như ngài đã đồng ý rồi. Không dám quấy rầy việc thanh tu của ngài nữa, ta xin cáo lui.”
Nói đến hai chữ “thanh tu”, nàng quả thực không thể kiềm chế, ánh mắt len lén liếc về phía vò rượu đang đổ nghiêng trên giường mây, từng giọt từng giọt rượu nho còn đang nhỏ xuống tí tách. Nàng bất chợt phát giác ánh mắt hắn quét tới, liền giật mình thu ánh nhìn lại, cúi người hành một lễ cảm tạ thật sâu, rồi xoay người bước ra ngoài.
Lý Huyền Độ vẫn đứng đó, áo xiêm lỏng lẻo, hai tay đặt sau lưng, đứng chắn ngay trước bậc cửa điện, không hề có ý nhường đường, lạnh lùng nhìn nàng.
Bồ Châu muốn ra khỏi điện, nhất định phải đi ngang qua trước mặt hắn. Khi gần tới bậc cửa, nàng bất giác ngửi thấy một mùi hương nhè nhẹ pha lẫn hương rượu thoang thoảng cùng mùi trầm hương.
Khoảng cách giữa hai người gần đến mức dù ánh sáng trong điện đã tối mờ, nàng vẫn có thể nhìn rõ vệt rượu đỏ sẫm vương lại trên yết hầu và trước ngực hắn.
Có lẽ vì căng thẳng, tim nàng đập thình thịch, hơi thở như bị kìm lại, mắt cụp xuống, dè dặt nghiêng người, cố gắng bước thật cẩn thận qua hắn, chỉ sợ lỡ vô tình chạm vào hắn lại biến thành hành vi mạo phạm.
Đúng lúc này, ngoài cửa sổ lại có tiếng sấm rền vang, cùng với đó là trận cuồng phong cuốn theo hơi lạnh quái dị ào ạt tràn vào từ khung cửa rộng mở, sau lưng vang lên tiếng “rầm” do va chạm. Bồ Châu ngoái đầu lại theo phản xạ.
Những quyển kinh đạo màu vàng được xếp trên giá sát tường đều bị cơn gió lốc cuốn xuống, rơi lả tả trên mặt đất.
Hoàng hôn u ám, mưa bão không ngừng, ánh sáng trong điện càng thêm tối tăm như thể màn đêm đã buông xuống. Hương rượu nồng đậm hơn, xộc thẳng vào phế phủ.
Bồ Châu không dám nán lại thêm, vội vàng quay người, sải bước rời đi. Nào ngờ chiếc mũ nhỏ trên đầu lại bị gió cuốn bay mất, búi tóc vốn đã búi lỏng, mất đi sự cố định của mũ lập tức xổ tung. Mái tóc dài như suối trút xuống, lại bị gió cuốn phồng lên, nàng đành trơ mắt nhìn lọn tóc đen như linh xà bay về phía hắn, quấn lên mặt lên cổ hắn.
Hắn nhắm mắt, cứng đờ xoay mặt sang hướng khác, tựa hồ vừa bị mạo phạm.
Bồ Châu luống cuống gỡ những lọn tóc đang quấn trên cổ hắn ra, nhặt chiếc mũ dưới đất lên, đội cũng không dám đội đã co giò bỏ chạy. Nàng chạy trối chết về phía đại diện, ra đến bên ngoài, nàng đứng lại, hít sâu một hơi để trấn tĩnh, đội bừa mũ lên đầu. Thấy Diệp Tiêu vẫn đứng ngoài cửa, nàng cúi đầu nói: “Vừa rồi đã thất lễ.”, sau đó cắm đầu lao vào màn mưa ngoài điện.
Nàng chạy xuống bậc thềm, định đội mưa quay về chùa, bỗng nghe thấy tiếng gọi của Diệp Tiêu từ phía sau. Nàng ngoảnh đầu lại, thấy hắn đuổi theo, đưa cho nàng một cái ô: “Tiểu thục nữ, cẩn thận kẻo nhiễm lạnh!”
Bồ Châu cảm kích đón lấy, nhỏ nhẹ nói tiếng cảm ơn rồi mở ô che mưa, vội vã rời khỏi đạo quán, nhanh chân trở về An Quốc Tự.
Giờ này trong chùa, đám khách hành hương thưởng hoa buổi chiều đã tản đi hết. Quản sự và đám tỳ nữ Quách phủ phát hiện ra nàng biến mất, đang sốt ruột tìm kiếm khắp chùa cùng các tăng nhân. Thấy nàng đột ngột xuất hiện, bọn họ thở phào nhẹ nhõm, vội chạy đến. Nhưng khi nhìn thấy dáng vẻ của nàng, ai nấy đều tỏ ra ngỡ ngàng.
Bồ Châu thu ô che mưa lại, mỉm cười nói: “Buổi chiều ta chợp mắt một lát, tỉnh dậy thì tự mình ra sau núi dạo một vòng, không ngờ trời đổ mưa lớn, bị kẹt lại một lúc mới về được, khiến mọi người lo lắng rồi.”
Mọi người thấy nàng trở về liền mau chóng chuẩn bị hồi kinh. Bồ Châu thay lại váy áo, đến khi vào thành, cơn mưa giông cũng đã dứt hẳn, bầu trời vốn âm u dần trở nên quang đãng.
Về đến nhà họ Quách, Nghiêm thị thấy thời tiết chuyển biến thất thường, trong lòng vẫn còn lo lắng, đến khi thấy nàng bình an trở về mới thả lỏng, dặn nàng mau về phòng nghỉ ngơi.
Bồ Châu về viện tử, tắm rửa thay y phục khô ráo, ngồi trước cửa sổ. A Cúc giúp nàng chậm rãi lau khô mái tóc dài. Nàng nhìn nhánh thạch lựu đỏ ướt mưa ngoài kia, chống cằm nghĩ về màn gặp gỡ Lý Huyền Độ hôm nay, nhất thời thất thần. Đang mải suy nghĩ thì bỗng thấy vợ Quách Lãng mang đến một bát trà gừng, nói sợ nàng bị nhiễm lạnh do dầm mưa.
Bồ Châu đón lấy, uống vài ngụm, cảm kích tạ ơn.
Nghiêm thị sai A Cúc đi xem thử bữa tối của tiểu thục nữ đã chuẩn bị xong chưa, sau đó cho lui hai tỳ nữ trong phòng. Bồ Châu liền hiểu bà có chuyện muốn nói với mình. Quả nhiên, nàng nghe bà cười bảo: “Hôm qua, Trưởng công chúa có hỏi riêng ta về sinh thần bát tự của cháu, nhưng ta chưa có. Ta luôn xem con như cháu ruột của mình. Nếu cháu tin tưởng ta, sau này việc hôn sự của cháu, cứ giao cho ta sắp xếp, cháu thấy thế nào?”
Bồ Châu giả vờ như chẳng hay biết gì, dùng thái độ nhu mì để đáp: “Dạ được.”
Nghiêm thị thấy thế, lúc này mới yên tâm.
Tối qua, bà đã nói với Quách Lãng về việc Trưởng công chúa có thể đã để mắt đến cháu gái nhà họ Bồ. Mãi đến lúc ấy bà mới biết, mấy hôm nay, đã có vài môn sinh ngấm ngầm đề xuất với Quách Lãng rằng nên tiến cử tôn nữ nhà họ Bồ làm Thái tử phi.
Nhưng Quách Lãng không đồng ý.
Cháu gái ruột của ông ta năm nay vừa tròn mười bảy, định xong hôn sự từ hai tháng trước. Đối với gia thế nhà họ Quách, định hôn sự muộn thế này đúng là có phần bất thường.
Nguyên nhân rất đơn giản. Trước khi tia sét giáng xuống phá hỏng chính điện của miếu Minh Tông, Quách Lãng cũng từng kỳ vọng cháu gái mình có thể trở thành Thái tử phi, vì vậy suốt hai năm qua vẫn chưa bàn đến hôn sự cho nàng. Thế nhưng, khi tia sét giáng xuống, ông ta liền thuận thế thăng chức thành công, biết rằng vị trí Ngự sử đại phu, một trong Tam công, cũng sắp rơi vào tay mình, do đó mới sắp xếp hôn sự cho cháu gái ngay lập tức.
Nước đầy ắt tràn, trăng tròn rồi lại khuyết. Quách Lãng đã lăn lộn trong quan trường hơn nửa đời người, thấu hiểu đạo lý này hơn ai hết. Chức vị quá hiển hách sẽ bị đố kỵ ghen ghét, Bồ Du Chi là một ví dụ sống động. Với địa vị hiện tại của ông ta, nếu trong nhà lại có thêm một Thái tử phi, thì về lâu dài sẽ không phải là điều tốt. Giữ vững vị trí hiện có, nắm chắc danh hiệu Thái phó của Thái tử, mai sau lại là sư phó của Hoàng đế, như thế đã là quá đủ. Thân phận ngoại thích vốn như con dao hai lưỡi, nếu không khéo léo kiểm soát, sẽ có ngày rước họa vào thân.
Bởi vậy, khi nghe môn sinh đề nghị tiến cử cháu gái nhà họ Bồ làm Thái tử phi, ông ta lập tức bác bỏ.
Cháu gái nhà họ Bồ giờ đây đã gắn liền với ông ta. Ngoài những lý do trên, ông ta còn coi trọng danh tiếng của mình, không muốn đối thủ chính trị lợi dụng sự việc này để bôi nhọ, cáo buộc ông lợi dụng cháu gái của Bồ Du Chi để đánh bóng tên tuổi, trục lợi cá nhân.
Vợ Quách Lãng hiểu được ý của ông ta, bèn âm thầm tính toán một phen.
Việc lựa chọn Thái tử phi đã được thảo luận từ nửa năm trước. Nay xem ra, cơ hội của nhà họ Thượng Quan không lớn, nhiều khả năng sẽ chọn một trong hai nhà họ Diêu hoặc họ Trần.
Bởi vậy, chuyện kết thân với Trưởng công chúa cũng phải chờ kết quả cuối cùng của vị trí Thái tử phi mới có thể quyết định.
Nếu nữ nhi nhà họ Trần được chọn, thì phải lập tức từ chối mối hôn sự kia, không thể vì chuyện này mà công khai đắc tội với hai nhà Thượng Quan và Trần.
Nhưng nếu cuối cùng người được chọn là nữ nhi nhà họ Diêu, vậy thì có thể cân nhắc đáp ứng hôn sự với Trưởng công chúa. Dù sao, quyền thần thay đổi theo thời thế, ba mươi năm Hà Đông, ba mươi năm Hà Tây, [1] năm xưa, họ Lương và họ Khương từng hiển hách một thời, nay chẳng phải cũng suy tàn đó sao? Cuộc hôn nhân này cũng xem như mở ra một đường lui cho gia tộc sau này.
[1] Ba mươi năm Hà Đông, ba mươi năm Hà Tây: Cụm từ này thực chất ám chỉ đến sông Hoàng Hà – một con sông có chu kỳ 60 năm và thay đổi hướng chảy sau mỗi 30 năm. Điều này nhắc nhở chúng ta về sự thay đổi không ngừng của cuộc đời và tình huống không ai có thể đoán trước được tương lai.
Sau khi cân nhắc kỹ càng, vợ Quách Lãng đến thăm dò ý tứ của Bồ Châu. Thấy nàng nhu thuận như thế, bà ta biết hẳn nàng đã từng chịu quá nhiều khổ sở, nhờ họ Quách mới vực dậy được, nên đã xem Quách gia là chỗ dựa duy nhất.
Bà ta hài lòng, nắm lấy tay Bồ Châu, giọng điệu càng thêm thân thiết, dặn nàng dưỡng sức cho tốt, sau này cứ an tâm, nhất định bà ta sẽ chọn cho nàng một nơi tốt để gửi gắm cả đời.
Tiễn vợ Quách Lãng ra về với bao lời ngọt ngào vì muốn tốt cho nàng, Bồ Châu chỉ lạnh lùng cười nhạt.
Lòng người khó dò. Trên đời này nhiều cha mẹ ruột còn chưa lo liệu nổi cho con cái nữa là kiểu quan hệ giữa nàng và Quách gia?
Kiếp trước, nếu dựa vào vợ chồng Quách Lãng, nàng đâu thể được chọn làm Thái tử phi? Người ra mặt đề nghị lập nàng làm Thái tử phi chính là Hồ Quý phi vẫn luôn giữ thái độ bàng quan. Và rồi, nàng chính là người được chọn.
Hiện tại chỉ cần dẹp yên bên phía Trưởng công chúa, không để xảy ra biến cố, mọi chuyện hẳn sẽ vẫn phát triển như kiếp trước.
Câu cuối Lý Huyền Độ nói với nàng hôm nay tuy là quát mắng, bảo nàng phải sống yên phận ở Quách gia, nhưng hàm ý bên trong, không khó để suy xét.
Hắn sẽ giúp nàng.
…
Đêm khuya, Lý Huyền Độ khoác áo mỏng, ngửa mặt nằm trên giường, nhìn chằm chằm bức tranh thêu Lưỡng Nghi Tứ Tượng trên bức tường đối diện, [2] miên man nghĩ về ý tưởng bắt cóc người khác mà tôn nữ họ Bồ đã bày ra cho hắn hôm nay.
Nữ tử này, bề ngoài mỹ mạo nhu nhược, nhưng tâm địa lại đen tối đến vậy.
Còn chuyện gì mà nàng không dám nghĩ hoặc không dám làm không cơ chứ?
Lý Huyền Độ cười khinh miệt.
Bồ Tả Trung lang tướng phong độ khí tiết ngời ngời, vậy mà lại có một đứa con gái như thế, quả thực đáng tiếc.
Thôi vậy, nể mặt phụ thân nàng, giúp thêm lần cuối cũng được.
Hắn không nghĩ thêm nữa, cuộn áo trở mình, chân trần bước xuống giường.
Hắn mắc bệnh lạ, thân thể vượng hỏa khô nóng, đến nay vẫn chưa hoàn toàn hồi phục. Nhưng hắn không uống thuốc nữa, cứ đến mùa hè thì tìm nơi mát mẻ u tĩnh ở tạm, khi xung quanh không có ai, hắn thích ăn vận thoải mái, cả người nhẹ nhõm mát rượi.
Hắn đến trước án thư, cúi người nhấc bút, viết một phong thư, rồi gọi Diệp Tiêu vào dặn: “Sáng mai đem bức thư này đưa cho Quảng Bình hầu Hàn Vinh Xương.”
Diệp Tiêu nhận lệnh, cầm thư rời đi.
Lý Huyền Độ thuận tay cầm quyển đạo kinh dưỡng sinh mà chân nhân Lý Thanh Hư của đạo quán đưa cho mấy hôm trước. Hắn trở lại giường, ngả lưng, lật giở vài trang, bỗng liếc thấy trong đó có ghi chép về phương pháp “dẫn tóc mai”, rằng: Đầu là nơi hội tụ của chư dương, tóc thuộc về thận, thận là tiên thiên, thuộc về khảm thủy, rượu vốn là thủy, song lại mang tính hỏa, nên hợp với khảm thủy vân vân… [3] Hắn chợt nhớ đến cảnh hôm nay lúc nàng rời điện, chiếc mũ nhỏ trên đầu bị gió thổi bay, từng lọn tóc dài bay tới cuốn quanh hắn.
Vừa mát vừa trơn, giống như da rắn, khiến hắn nổi hết cả da gà ngay tại chỗ.
Dù nàng đi rồi, hắn lập tức đã tắm rửa thay y phục, nhưng giờ nghĩ lại, dường như cổ hắn vẫn còn cảm giác ngứa ngáy khi bị tóc nàng lướt qua.
Lý Huyền Độ lấy làm khó chịu, liền ngồi dậy, tìm một chiếc khăn trắng tinh, lau lau cổ, rồi tiện tay vứt đi, lúc này mới thổi tắt đèn, vươn vai một cái, nằm xuống ngủ.g khăn trắng xoa xoa cổ, lại ném khăn đi, duỗi lưng nằm xuống ngủ.
*
[2] Lưỡng nghi: Lưỡng Nghi bao gồm 2 thể Âm và Dương. Âm tượng trưng cho những bóng tối, màu đen, lạnh, trũng thấp, màn đêm, mặt trăng, mùa đông… Còn Dương tượng trưng cho ánh sáng, màu trắng, đỏ, nóng, vùng nổi cao, ban ngày, mặt trời, mùa hạ….Chúng luôn bảo trì cân đối và không thể tách rời nhau. Một khi hai thể này không thể đạt được trạng thái cân bằng hoặc bị tách rời đều là sẽ mang đến trạng thái không tốt cho môi trường và con người.
Tứ tượng: Tứ Tượng là thành phần cuối cùng được sinh ra từ Lưỡng Nghi. Tứ Tượng bao gồm 2 phần là thái dương và thiếu dương, thái âm và thiếu âm. Trong đó, Âm là đen, Dương là trắng. Phần đen lớn là Thái Âm, phần đen nhỏ là Thiếu Âm, tương tự với phần màu trắng lớn và nhỏ là Thái Dương và Thiếu Dương. Trong phần màu đen lớn có phần trắng nhỏ, trong phần màu trắng lớn có phần màu đen nhỏ, tượng trưng cho quan niệm phong thủy “Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm”. Hay nói, Âm Dương không chỉ cân bằng mà còn có sự tương hòa lại không đồng nhất. Giống như con người, không ai hoàn toàn xấu cũng chẳng ai hoàn toàn tốt.
[3]
[3] * Tóc do thận chủ quản. Thận là cơ quan gốc rễ (tiên thiên), tượng trưng cho nước – tức thuộc Khảm thủy. “Khảm” (坎) là một trong Bát quái, tượng trưng cho nước, mang thuộc tính âm, biểu hiện của sự sâu thẳm, nguy hiểm, lạnh lẽo, trầm lặng. “Thủy” (水) nghĩa là nước. → “Khảm thủy” chính là thuộc tính nước của quẻ Khảm, đồng thời cũng biểu trưng cho thận trong cơ thể người (theo y học cổ truyền phương Đông, thận chủ thủy, quản lý nước trong cơ thể).
Câu này đang nói đến mối liên hệ giữa tóc – thận – nước, tức là: Tóc do thận chủ quản, mà thận thuộc thủy, nên thuộc Khảm thủy. Khảm thủy ở đây không phải là vật chất cụ thể, mà là cách gọi tượng trưng trong hệ thống triết lý âm dương – ngũ hành, để chỉ bản chất nội tại của thận là thủy, là nước, đối nghịch với các yếu tố mang tính hỏa/dương khác.
* Rượu được chế từ nước (men + nước gạo v.v…), nên “bản chất” là thủy. Nhưng rượu lại khiến cơ thể nóng lên, kích thích tâm trí, vậy nên mang tính hỏa (hỏa = lửa). Trong thuyết âm dương ngũ hành, thủy và hỏa là hai yếu tố đối nghịch, nhưng cũng có thể cân bằng lẫn nhau nếu dùng đúng cách. Trong đoạn này, rượu (mang tính hỏa) được nói là “tương ứng” với Khảm thủy tức là: hỏa – thủy điều hòa, bổ trợ, có thể điều chỉnh nhau.
* Tóm lại: Rượu là nước có lửa – nhìn thì nghịch lý, nhưng thực ra lại là biểu hiện của sự điều hòa giữa nước và lửa. Nó làm ấm cái lạnh của Khảm thủy (thận, tóc, cơ thể hàn), nên nếu dùng đúng cách có thể bổ dưỡng, nhưng nếu dùng sai thì tổn hại thận.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận