Tôi tỉnh dậy trong căn nhà đầy ắp người nằm la liệt trên những giường bố nhà binh kê sít nhau, nhưng người đầu tiên tôi nhìn thấy là cô y tá đang cúi xuống, hỏi tôi :
- Cậu nghe trong người thế nào ?
- Dạ… dạ… Tôi luống cuống không biết trả lời ra làm sao nữa, chỉ cảm thấy bần thần như vừa trải qua một cơn ác mộng và bỗng sực nhớ chuyện chìm ghe, tôi hoảng hốt :
- Mẹ tôi đâu ? Mẹ tôi đâu ?
Cô y tá cười :
- Mẹ cậu nằm bên cạnh đấy chớ đâu.
Tôi lật đật quay mặt về phía giường bên cạnh, cùng lúc ấy mẹ tôi cũng nhìn lại.
- Trời ơi ! Mẹ ! Mẹ ! Tôi mừng quá tung chăn, đến ôm chầm lấy bà. Còn anh Giác… Anh Giác đâu mẹ ?
- Nó kìa ! Mẹ tôi đưa đôi mắt mệt nhọc về phía giường gần đó.
- Anh Giác ! Anh Giác ! Tôi định chạy lại anh ấy, nhưng cô y tá đã nhẹ nhàng kéo tôi trở về giường.
- Hãy nằm nghỉ cho thật khỏe đã…
Mà thật, tôi đã mừng quá quên cả đang nhức đầu, tay chân mỏi rã rời và giọng nói khan khan như vịt đực…
Sau này, mỗi lần mẹ tôi nhắc lại chuyện này bà thường khen tôi : Cái thằng thế mà có sức. Và từ đó, tôi cũng tự thấy là đã lớn, đã có thể giúp ích được cho bà nên khi mọi tai biến đã qua, mẹ tôi quyết định về ở chợ Bù Chét để buôn bán thì tôi đã trở thành một tay phụ tá rất đắc lực cho bà : Tôi nấu ăn như một người nội trợ. Còn anh Giác thì mở lớp vỡ lòng dạy trẻ con trong xóm.
Mẹ tôi mót máy những món đồ quí giá còn sót lại để sắm một gánh hàng xén và mua một căn nhà lá ở làng Thái Đông cách chợ Bù Chét chừng ba cây số.
Làng Thái Đông là một làng rất thưa thớt dân cư, phần đông là nông dân quanh năm chỉ biết vui với ruộng đồng vì ngoài ra không còn cuộc vui nào khác. Ở đó, có lẽ ngàn năm vẫn không có một gánh hát nào đến dù là hát bộ.
Thỉnh thoảng có vài cuộc cúng kiếng ở đình chùa thì cũng chỉ họp nhau lại để cúng rồi ăn chứ chẳng tổ chức thêm đám rước thần, rước đèn gì.
Tôi ở đó được bốn năm với rất nhiều kỷ niệm.
Trong đám trẻ con ở đó, chỉ có tôi là học khá chút đỉnh, còn thì chỉ toàn những đứa trẻ biết đọc, biết viết lom lem hoặc dốt đặc, nhưng óc tưởng tượng rất phong phú. Chúng tôi thường tổ chức nhiều trò chơi rất đặc biệt mà chắc chắn trẻ con thành phố không bao giờ nghĩ tới.
Chúng tôi chia hai phe để đánh giặc giả, lấy cây. lấy tre đẽo gọt thành những khí giới và lấy đất nặn những trái mìn, lựu đạn. Trò chơi này, chúng tôi bắt chước ở những lần tập trận của anh em dân vệ.
Ngoài ra, chúng tôi còn cái thú đá banh, kiếm thửa ruộng mới gặt làm sân và lấy lá chuối khô cuộn tròn làm quả bóng. Nhưng đừng tưởng chúng tôi không biết luật lệ vì chính tôi phổ biến luật lệ đá banh mà. Những lần có một đứa sút banh quá cao làm gạt-gôn không chụp được thì gôn phải kêu là “hô” và nếu banh nhảy sang bờ ruộng khác thì phải “nu”.
Những danh từ ấy, lẽ dĩ nhiên là bọn trẻ không biết nghĩa mô tê gì cả và cũng lẽ dĩ nhiên là luật lệ chỉ được thi hành một cách tương đối mà thôi. Bởi vì sân thì thường hẹp mà cua-rơ thì đông nên để đứa nào cũng có thể dự cuộc đành phải chia đều làm hai !
Thế rồi mạnh ai nấy đá, xô đẩy nhau té sấp, té ngửa đến nỗi có đứa ngán quá cứ đứng chờ banh tận dưới gôn của đối phương mà chẳng sợ ọt-rơ vì chúng tôi coi lỗi ấy không ra gì cũng như banh trúng là sự thường xảy ra, nếu phạt thì hết mất thì giờ. Và đó là trò chơi được chúng tôi thực hiện thường xuyên, thường là vào lúc trưa đứng bóng, lúc ấy chúng tôi đều rảnh việc nhà, nhưng cũng dễ bị bệnh.
Tôi đã bị cảm mất mấy ngày cũng chỉ vì thế và mỗi lần đi đá banh về là y như mỗi lần tôi bị khan cổ vì vừa đá vừa gào thét, kình cãi vào những lúc banh đá vào gôn mà đối phương không chịu cho ghi bàn thắng.
Kỳ thực những lần như thế cũng khó mà phân định ai phải, ai quấy vì gôn là hai cục đất cày đặt hai bên hông đứa gạt-gôn để làm giới hạn, rồi có thể vì trời nắng không ai còn thấy rõ gôn ở đâu, hoặc đứa gạt-gôn đã kéo hai cục đất gần nhau lại cho gôn hẹp đi để banh khó lọt vào. Có điều, chuyện có thế mà chúng tôi cũng không giải quyết nổi dù đã cử trọng tài vì khổ nỗi trọng tài là một đứa nhỏ nhất bọn không đá banh được mới chịu giữ chức ấy.
Anh Giác thấy tôi đá banh cũng muốn tham dự lắm, nhưng đã lỡ làm ông giáo nên đành phải tỏ ra người lớn dù lớp anh dạy sĩ số chưa đến hai mươi và toàn là những trẻ mới biết mặc quần. Người trong lối xóm đều gọi anh bằng thầy. Tiếng thầy nghe trịnh trọng nhưng tôi lại thấy khôi hài vì nghĩ đến cái bệnh mau nước mắt của anh. Ngược lại, mẹ tôi lại hãnh diện.
Vả nữa, việc làm của anh ấy đã giúp thêm vào nền tài chánh gia đình đỡ chật vật. Người ta đã trả học phí tương đối hậu hĩ, nhưng không phải trả bằng tiền mà trả bằng thổ sản của từng người, hoặc gạo, hoặc khoai, sắn, bắp, đậu và tuỳ nghèo, giàu mà hoặc ít hoặc nhiều. Do đó mỗi tháng, như một nhà nông chính cống, anh Giác thu hoạch một số hoa màu đặc biệt mà khỏi cần cày bừa, gieo vãi và nhờ vậy, trong nhà chẳng bao giờ thiếu cái ăn.
Ngoài ra, anh còn được phụ huynh cho quà cáp và thỉnh thoảng mời đi ăn giỗ. Nghĩa là dân làng đối với anh lúc nào cũng quí trọng như một thượng khách. Riêng tôi, tôi cho anh Giác có cái số sướng, lù khù mà sướng.
Còn mẹ tôi thì mỗi buổi mai lo gánh gồng đồ xuống chợ để bày biện trong lều lợp lá đủ thứ lặt vặt y như là một tiệm chạp phô được thu gọn. Buổi mai nào bà cũng phải lo đi thật sớm. Tội nghiệp, bà không quen gánh gồng nên chỉ gánh được có mỗi một bên vai mặt rồi cong lưng chạy một mạch đến chợ.
Bà thường khoe chỉ có lều của bà là đông khách nhất, nhưng tôi không tin đông khách vì may mắn, chắc là nhờ bà hiền hậu và không kiểm soát được những người ăn cắp vặt thành thử họ đến đó với lòng tham mua một lấy mười. Thêm vào đấy bà thường tính nhầm, cộng trừ bằng miệng ít khi trúng. Ấy vậy mà tôi đã lầm vì nếu không lầm thì thử hỏi tại sao gánh hàng mỗi ngày thêm phong phú chứ không kiệt quệ ? Đúng là bà có cái số đỏ.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận