Anh Giác sốt sắng :
- Dạ !
Nhưng cha tôi vội cản lại :
- Bảo thằng Giác đi xách ấm là nó đập ấm cho mà coi.
- Cái ông này… Ý hẳn mẹ tôi muốn trách cha tôi sao quá nghiêm khắc, rồi quay sang anh Giác, ôn tồn :
- Nhớ cẩn thận, nghe con !
Cha tôi cười chế riễu :
- Vô ích, dù bà có năn nỉ đừng làm bể, nó vẫ làm bể như thường.
- Thế nghĩa là ba muốn con làm bể ? Anh Giác đứng lại và ngớ ngẩn hỏi.
- Sao mày ngu thế hở ? Cha tôi lại quát. Tao có nói muốn mày làm bể cái ấm bao giờ đâu ? Tao chỉ sợ mày làm bể cái ấm thôi ! Ông nhấn mạnh và kéo dài câu này.
- Dạ, con hiểu ! Anh Giác trả lời. Giọng anh run run. Chắc trong anh đang mang ý nghĩ : “Ừ, quả mình ngu thực. Cha mình đã sợ tức biết trước sau gì mình cũng làm bể cái ấm… “. Nhưng vẫn xuống bếp. Anh lững thững như người mất hồn và hai phút… năm phút… mười phút… anh ở biệt luôn dưới.
- Lạ chưa ! Mày làm gì ở chết dưới ấy hở Giác ? Mẹ tôi cũng bắt đầu đâm bực.
- Thì tôi đã bảo, còn không nghe. Bà xuống dưới xem nào… Mà thôi, để tôi đi cho.
Tôi biết, tuy nói vậy, nhưng cha tôi cũng nóng ruột. Có lẽ chẳng những ông sợ anh Giác đập bể ấm mà còn sợ anh ấy bị phỏng nước sôi nữa là đằng khác.
Trên nét mặt ông, tôi bắt gặp thoáng chút hối hận.
Ông vội vã xô ghế đứng dậy rồi đi thẳng về phía bếp.
- Giác ! Giác ! Cha tôi gọi.
- Dạ… Tiếng “Dạ” ngập ngừng phát ra từ kẹt cửa.
- Thế nào, mày làm bể ấm rồi hả ?
- Dạ ! Anh Giác lại dạ.
- Ra đây tao bảo !
- Dạ ! Anh Giác riu ríu vâng lời.
Tôi tưởng lần này anh Giác sẽ bị trận đòn đau ; ngược lại, cha tôi chỉ nhìn anh như xem xét một đồ vật rồi lắc đầu ngao ngán :
- Bà thấy không, tôi nói không sai… Ông nói với mẹ tôi. May là nó không bị phỏng nước sôi.
Và câu chuyện này bỗng thành một huyền thoại trong nhà.
Cứ thế, gia đình chúng tôi ở Sàigòn với nhịp điệu buồn tẻ ấy, không ai biết chúng tôi là ai. Ở đây hình như mọi người chỉ biết có tiền. Cựa đến cái gì cũng tiền. Đồng tiền trên cửa miệng. Đồng tiền trên tay. Đồng tiền ở khắp các ngõ ngách. Đến nỗi ai mà nói đến chuyện nhân nghĩa đều bị coi là kẻ dại dột nhất.
Do đó, tuy lên Sàigòn đã hai tháng mà cha mẹ tôi vẫn chưa đề cập đến việc cho tôi và anh Giác đi học.
Sàigòn có nhiều chuyện tréo cẳng ngỗng như vậy đó. Đáng lẽ chỗ đô hội, văn minh có nhiều phương tiện, nhất là phương tiện học vấn cho con em thì ngược lại, vô trường công phải có đủ điều kiện tuổi tác, hoàn cảnh gia đình, nộp đơn sớm v.v… toàn những phiền phức rắc rối, nên chẳng mấy ai được hưởng quyền lợi đó.
Đã thế, trường công lại ít. Có trường lại không có đủ phòng để chứa học sinh nên mới có cảnh nhiều lớp phải học chung một phòng bằng cách chia ra nhiều “suất”, kể cả suất trưa.
Ai mà có con em đi học suất trưa là kể như phải lo thuốc trước vì mất ăn, mất ngủ, đi dưới nắng trưa từ nhà đến trường làm sao trẻ nhỏ không bệnh ? Còn vào trường tư thì tương đối được dể dãi hơn, vệ sinh hơn nhưng phải đóng học phí và phần đông lại nhằm mục đích thương mại hơn là giáo dục.
Cuối cùng, một giải pháp rất thích hợp được cha mẹ tôi nghĩ đến và thực hiện là gửi tôi cùng anh Giác vào ký nhi viện.
Lẽ dĩ nhiên, ký nhi viện không phải là trường học. Suốt ngày chúng tôi chỉ tập hát, được dạy bảo một vài phép tắc xã giao, lễ độ thông thường rồi chơi. Thực không có gì sướng cho bằng, tôi nghĩ vậy.
Trong trí óc non nớt của tôi, tôi mong rằng được ở đây suốt đời để khỏi bị nhét vào đầu những chữ nghĩa rắc rối, những con toán khúc mắc, nhưng khổ nỗi ước muốn ấy lại bị cắt đứt nửa chừng ! Một người bạn của cha tôi làm hiệu trưởng một trường trung học, không biết đã can thiệp bằng cách nào mà gửi thư cho biết vừa giành một học bỗng tại trường công lập Sàigòn để giúp đỡ tôi hoặc anh Giác.
Được tin này, cha mẹ tôi mừng lắm.
Cha tôi quyết định. Ông nói :
- Học bỗng này cho Lênh Đênh hưởng.
- Còn thằng Giác ? Mẹ tôi phân vân.
- Thằng Giác hả ? Ồ… thằng Giác ngày trước đã có tới trường chút đỉnh rồi mà. Vả nữa, bây giờ tôi cần nó ở nhà giúp đỡ công việc. Nó vậy chớ xem ra có khiếu thương mại đấy. Tôi sẽ huấn luyện nó trở thành một nhà doanh thương…
- Ông nói sao ? Mẹ tôi mở tròn mắt, ngạc nhiên. Thằng Giác mà có khiếu thương mại ?
- Chớ còn gì nữa ? Bà cho tôi nói bậy à ? Tự nhiên giọng cha tôi hơi gắt.
- Ờ nhỉ ! Mẹ tôi đâm hoảng vì ý nghĩ đã chạm đến tự ái cha tôi. Kỳ thực bà không hiểu cha tôi xét đoán thế nào mà tuyên bố như vậy.
Còn tôi, tôi lại nghĩ chắc tại anh Giác nhiều nước mắt và chắc nước mắt có nghĩa tương tự với hai chữ thương mại nên thay vì nói có khiếu nước mắt, cha tôi nói có khiếu thương mại. Và chuyện ấy không dính dấp gì đến tôi. Điều mà tôi đang lo là phải đến trường với cái áo bà ba và quần đùi.
Ở Sàigòn, trẻ con đến trường đều mặc sơ-mi, quần soọc ; chỉ có bọn đánh giày, bán cà rem hay trẻ con lang thang ngoài đường mới ăn mặc lôi thôi. Khổ nỗi, ngoài bộ đồ ấy, tôi lại không còn một bộ đồ nào khác lành lặn hơn.
Thế là, dù có lo lắng đến đâu cũng không có cách gì để khỏi mặc cái áo bà ba với cái quần đùi kỳ cục ấy. Khi vào lớp, học trò đã nhìn tôi như nhìn một hiện tượng quái gở. Tôi biết là tôi đã thành một đề tài ly kỳ, đáng khai thác.
- Kìa nó mặc áo túi ! Chúng nó khúc khích, thầm thì với nhau. Cả đến ông thầy, trong ánh mắt ông hình như cũng nói lên câu đó. Tôi chắc ông đã thấy sự nghèo khó của gia đình tôi qua chiếc áo nên không dấu được cái nhăn mặt chua xót. Và ông giám thị thì lại luôn luôn tỏ vẻ khó chịu, nếu không nói là có ác cảm. Lúc nào ông cũng gọi tôi : “Ê ! Chú kia ! Chú bé Lểnh Đểnh”, Mặc dù tôi đã cố gắng nhiều lần, lễ phép thưa : “Dạ thưa thầy, con tên là Lênh đênh !”
- Lênh Đênh hả ? Ông nói lại rồi cười hô hố. Lênh Đênh, Lểnh Đểnh cũng rứa, có gì mà cải chính.
Do đó, học trò đều gọi tôi là “Chú bé Lểnh Đểnh”. Tôi nghĩ mà giận cho cái áo túi. Vì cái áo túi nên mới có cái tên xấu xí ấy !
Đã thế, tôi lại còn có nhiều khác biệt với học trò ở đây nữa. Chúng nó đứa nào cũng mang cặp da, xách bình mực có quai, sách vở mới tinh.
Còn tôi không có cặp da chỉ có miếng vải dầu bọc sách vở và bình mực là cái chai nhỏ, thấp, miệng rộng do anh Giác tôi kiếm cho. Thêm vào đấy, sách vở tôi đều rẻ tiền. Vở thì giấy đã ngả màu, mua ở mấy hàng bán “xôn”.
Sách cũng vậy. Sách mua ở những nơi người ta bày bán dưới hè phố, rách nát, mốc meo, hôi hám, long gáy, có quyển thiếu cả mấy trang chắc đã bị xé hoặc rụng mất -- Về nhà anh Giác chịu khó đóng lại bìa cứng nên dùng được nhưng vì những cái bìa cứng ấy do anh Giác dán mà lại dán quá nhiều hồ thành thử trông thô kệch, thảm hại.
Về sau anh còn dán cho tôi cả một cái cặp có nhiều ngăn y như cái các-táp, nhưng lại cũng dán quá nhiều hồ nên những bìa sách và cái cặp của tôi hóa ra chỗ dự trữ lương thực cho loài gặm nhấm. Thỉnh thoảng, không biết chuột hay dán cứ móc từng mảnh giấy lớn làm anh Giác tôi phải đi khuấy hồ dán lại và công việc này biến anh ấy thành một người thợ mã.
Dần dần, anh có cả một bộ đồ nghề gồm kim, chỉ, kéo, giấy và một số chai đựng hồ đặt trước bếp lửa. Anh đã làm công việc này ngoài những giờ cha tôi sai đem hàng ra phố hoặc bắt biên chép việc thu chi, lời lỗ, nợ nần vào sổ tay và mẹ tôi sai đi mua thức ăn hoặc mua đồ dùng trong nhà. Tội nghiệp cho anh ấy. Suốt ngày, ít khi tôi thấy anh rảnh tay.
Có lẽ đó cũng là một cách cha tôi huấn luyện để anh Giác trở thành nhà doanh thương tương lai. Và bây giờ khiếu thương mại của anh được phát hiện bằng công việc dán bìa. Như một thói quen, lúc nào anh cũng dán bìa như anh đã thường khóc một cách dễ dàng. Tôi nghĩ vậy.
Còn tôi không được cái may mắn như các bạn học thì phải làm một cái gì nổi bật để người ta khỏi chế giễu gọi tên “Chú bé Lểnh Đểnh”. Cuối cùng tôi quyết định : Phải học thật giỏi ! Phải cố gắng học thực nhiều !
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận