Cha tôi thường bảo rằng “chiếc áo không làm nên ông thầy tu” rồi giảng nghĩa hàng giờ về phương ngôn ấy.
Bây giờ đem trường hợp của tôi gán ghép vào đó, thực không có gì đúng hơn.
Bọn học trò đã chế diễu chiếc áo túi của tôi, nhưng chắc chắn chúng sẽ khâm phục khi biết sau lớp áo túi ấy có một con người luôn luôn cố gắng học hành và học giỏi.
Mà thật, tôi đã cố gắng học không kể đến giờ giấc, không nghĩ đến chuyện vẩn vơ. Tôi đã có can đảm thức khuya, chống lại cơn buồn ngủ bằng xác chè đắp lên mắt và chống lại muỗi Sàigòn nhiều như cát vãi – bằng cách cuộn chân trong mền dù tiết trời nóng bức.
Mẹ tôi nhìn tôi cười hài lòng, ngồi xuống bên cạnh :
- Nực không con ?
- Dạ không ! Dạ quen rồi !
Và tôi nghe tiếng thở dài của bà.
Tôi chắc bà đang tiếc nuối những ngày sung sướng đã qua và nghĩ đến quê hương, nghĩ đến một ngày nào đó tái lập được sự nghiệp sẽ trở về thành phố Châu Đốc nhỏ bé, thân yêu.
Nói đến mẹ, tôi tin rằng người mẹ nào cũng có nét dịu hiền, đáng kính bất diệt.
Trong một bài nào đó có đoạn nói về tình yêu mẹ “… Ta yêu mẹ hầu như không thấy được. Tình yêu ấy rất bao la, chỉ khi mẹ ta mất đi mới thấy nó to lớn dường nào…” Ai viết bài đó, tôi không nhớ, người ấy quả đã có một nhận xét sâu sắc cũng như người đã viết nên bài thơ “Cảnh vui nhà nghèo” có hình ảnh mẹ với vẻ đẹp thần thánh :
Tan buổi học mẹ ngồi tựa cửa
Mẹ trông con đứa đứa về lần
Xa xa con đã tới gần
Các con về đủ quây quần bữa ăn,
Cơm dưa muối khó khăn mới có
Của không ngon nhà khó cũng ngon…
Và mẹ tôi cũng đã thể hiện được hình ảnh ấy bằng hành động. Bà thường đón tôi tận ngoài ngõ vào những giờ tan học.
Nhưng rồi một hôm, hôm ấy sau khi tan học tôi bị mấy thằng bạn rủ chơi mải mê nên về trễ. Tôi phải cắm đầu chạy như điên, sách vở dắt trong lưng quần, bình mực bỏ túi, vành mũ cắn chặt giữa hai hàm răng rồi chạy một mạch về nhà với hy vọng sớm được chút nào hay chút ấy để nếu có bị quở mắng thì cũng quở mắng ít thôi. Và khi chạy tọt vào đầu thang gác, tôi mới sực nhớ hôm nay không có mẹ tôi đón ở ngõ như mọi lần.
Tôi đâm hoảng. Linh tính cho biết đã có biến cố xảy ra. Cùng một lúc, tôi lo lắng về việc chưa bịa ra được lý do về trễ để giải thích với cha tôi – Tình thế bắt buộc phải nói dối mà – Có điều phải nói dối thế nào cho có lý. Tôi loay hoay mãi với vấn đề đó nhưng vẫn không tìm ra một chuyện có lý thì cha tôi hiện ra ở khung cửa và thật là lạ lùng, thay vì la rầy, ông nhìn tôi buồn buồn :
- Hôm nay sao con về trễ vậy ? Ông trách móc nhẹ nhàng rồi ôm tôi vào lòng nựng nịu rất lâu. Ông nói : Lênh Đênh ơi ! Anh Cả con bệnh nặng. Mẹ và anh Giác về dưới thăm rồi…
- Trời ơi ! Anh Cả con bệnh nặng à ? Tôi thảng thốt kêu lên. Bệnh thế nào cha ? Tôi gỡ vòng tay ông và hỏi dồn dập.
- Cũng không nặng lắm đâu. Ông trấn an tôi. Chắc ông thấy tôi run rẩy, mặt biến sắc. Tin tức thì vậy nhưng cha đoán có lẽ chỉ cảm xoàng và vì nhớ mẹ nên nói cho to chuyện để mẹ con về dưới gần anh con ít bữa, thế thôi.
Tuy vậy, tôi cũng chưa yên tâm. Hình ảnh anh ấy chập chờn trong trí óc và tôi thấy nhớ mẹ. Tôi ân hận đã về trễ. Nếu tôi về sớm có thể là được tiễn bà ra bến xe. Kỳ thực tôi không biết bà đi lúc nào. Tâm trạng của tôi bây giờ vô cùng hoang mang. Mới vắng mẹ một hôm mà như thấy bị đánh mất một cái gì quý báu nhất trong đời.
Ngồi lại bàn ăn nhìn về phía mẹ tôi ngồi, lòng tôi bỗng quặn thắt, thường ngày bà vẫn ngồi đó và gắp thức này thức kia cho tôi, cho anh Giác.
Có bà trong nhà, không khí gia đình ấm cúng rất nhiều. Những tiếng nói, những bước chân, những dáng điệu mềm mại, những cử chỉ săn sóc của bà như dòng suối mát trưa hè.
Tôi thường nằm bên cạnh mẹ tôi để nghe bà kể chuyện đời xưa, chuyện bà thuở còn bé. Giọng bà đều đều, dịu ngọt như lời ru. Sau đó, tôi đã ngủ bình yên trong lòng bà, ngoan ngoãn, hiền lành hơn bao giờ hết.
Tự nhiên, một so sánh ngộ nghĩnh đến với tôi : lúc này tôi như đứa trẻ vừa bị bỏ bú, ngẩn ngơ và buồn bã.
Ấy vậy mà, khi có bà ở nhà, tôi lại chẳng bao giờ nghĩ đến điều ấy và bây giờ nghĩ nếu bà chết chắc tôi có thể chết theo được ! Cuộc đời tôi trong tay bà. Một lời an ủi, một tiếng khen, một câu trách móc… tất cả tuy tầm thường, vẫn làm tôi xúc động, cho tôi niềm tin và nghị lực.
Bây giờ, bà đi rồi, tôi hoàn toàn cô đơn và cầu mong anh Cả tôi mau mạnh để bà kết thúc chuyến đi thực sớm…
Cứ thế, tôi nghĩ lung tung, quanh quẩn, những ý nghĩ không thành vấn đề cho đến mãi khi ăn cơm xong thì trời cũng vừa tối, đèn được thắp lên. Trông ánh đèn vàng vọt tỏa trong căn nhà nhỏ càng làm tăng cảm giác nực nội, khó chịu. Ở Sàigòn, những xóm lao động, như xóm tôi ở, có điện như thế là may mắn.
Có nhiều xóm không có điện, thắp đèn dầu leo lét, thứ đèn dễ gây hoả hoạn ấy đã bắt nhiều người chịu cảnh màn trời chiếu đất chỉ vì một phút bất cẩn – rọi bắt một con muỗi hoặc để hớ hênh, chuột chạy làm ngã đổ – Đã thế, thỉnh thoảng xóm tôi lại bị khổ với cái nạn cúp điện mặc dù đọc báo có thấy đăng bố cáo của nhà đèn, nhưng đọc mà vẫn không biết nhà mình sẽ bị cúp điện vì trong bố cáo chỉ ghi những mã số của từng khu vực mà chỉ nhà có công tơ, có biên lai nhà đèn mới biết, còn những nhà xin câu điện của những người ấy thì biết thế nào được.
Đó là chưa kể những người ấy nổi hứng cúp không cho điện từ nhà họ đến mình chỉ vì những nguyên do giản dị nhất : Cái pít-cúp, cái vô tuyến truyền hình cần điện cao thế, hay có tiệc tùng, có mở “ban”, mở “bum” cần thắp nhiều đèn trong nhà họ… Thời đại kim tiền mà.
Đúng như cha tôi nói, có tiền muốn gì cũng được và ai cũng phục vụ cho kẻ có tiền. Tôi ở đây ba trăm năm sau không biết có được cấp công tơ hay không ? Nếu tôi là Nguyễn Du, chắc câu nói này sẽ có giá trị thực tiễn hơn câu “không biết ba trăm năm sau có ai khóc Tố Như hay không ?
Nghe đâu nhà đèn này là của Tây được thầu, ký hợp đồng gần một trăm năm và ai muốn xin công tơ phải hội đủ những điều kiện mà trong đó điều kiện tiền là tiên quyết. Vậy thì nghèo là đừng mong có công tơ để được trả giá một ký điện theo giá chánh thức thay vì giá chợ đen, trường hợp này, có lần ngồi nhẩm tính, tôi thấy bị kẻ có công tơ bóc lột quá dã man.
Một ký điện giá chính thức 5đ chẳng hạn, nhưng mình phải chịu 10đ, và một công tơ có thể cho 20 nhà câu, mỗi nhà một tháng thắp 10 ký vị chi người có công tơ kiếm lời cả ngàn bạc rất ư là khỏe khoắn. Và cứ thế, tháng này qua tháng nọ, năm này qua năm nọ, số lời ấy là cả một lợi tức đáng kể. Đó là chưa kể muốn câu phải thế chưn hai ngàn.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận