Bây giờ, tôi tưởng tượng anh cả tôi ở dưới Châu Đốc, nằm trên giường với đôi mắt lờ đờ, mệt mỏi vì bệnh mỗi lúc mỗi thêm trầm trọng – Linh tính cho tôi biết như thế -- Cùng một lúc, trong đáy lòng tôi hình như vừa có một thứ tiếng khiển trách từ đâu đó, mơ hồ dấy lên : Này, nếu mày là thằng bé khôn ngoan thì hãy cầu nguyện cho anh mày và bề trên sẽ chấp nhận.
Nhưng phải thành tâm, mày đừng có nói láo như đã nói láo với cha mày. Nếu không ham chơi, mày đã được theo mẹ về thăm anh mày rồi, lỡ một giây là ân hận suốt đời, Lênh Đênh ạ !
- Tôi xin chừa mà ! Trời ơi ! Không, không đời nào tôi dám dại dột như thế nữa ! Tôi đau đớn, lẩm bẩm, nước mắt ràn rụa và giữa lúc ấy, người phát thư đạp chiếc xe đạp cọc cạch từ đầu hẻm tiến về phía nhà tôi.
- Điện tín ! Điện tín ! Có ai đấy không ?
- Hả ? Điện tín của ai ? Nghe hai tiếng điện tín, tôi đâm bối rối. Ngược lại, người phát thư vẫn giữ thái độ bình thường.
- Nhà này là nhà ông Xếp phải không ?
- Dạ.
- Cậu là con ổng hả ?
- Dạ.
- Ra đây mà nhận điện tín. Trời, sao đứng đấy ? Mau lên chứ ! Cậu biết bây giờ là mấy giờ rồi không ? Tại có cái điện tín này nên tôi phải đi cả trong giờ nghỉ… Ông ta lải nhải kể công khó, nhưng tôi không còn bình tĩnh để nghe gì hết. Tôi run run đặt bút ký vào sổ và cầm cái điện tín như cầm cái đuôi con thạch sùng, những ngón tay tê lạnh, mất hết cảm giác.
- Lênh Đênh, gì vậy con ? Cha tôi từ trong nhà hỏi vọng ra.
- Dạ đâu có gì ! Tôi trả lời.
- Cha nghe con nói chuyện với ai mà.
- Dạ… Dạ… Tôi ấp úng, đợi người phát thư quay xe đi. Có người ăn xin ! Rồi giấu tờ điện tín trong áo, tôi dọn bộ mặt thản nhiên, trở vào để cha tôi khỏi nghi.
- Một người ăn xin hả ?
- Dạ ! Tôi dạ như một cái máy vì tâm trí đang bận với cái điện tín : Có thể đây là một tin chẳng lành, tuy chắc không có gì mới mẻ hơn linh tính của tôi, nhưng tôi lại không muốn nghĩ đến điều đó, và từ đó không dám cử động mạnh, tôi ôm cứng tờ giấy màu xanh vào ngực, cố tìm một lý lẽ khác để trấn tĩnh : Tại sao không có thể là một tin vui ? Tin anh Cả tôi lành bệnh chẳng hạn.
Cuối cùng, tôi lên gác, bật vội ngọn đèn, hai tay rút nhanh cái điện tín hấp tấp mở ra xem.
“Nó đã chết !” Hàng chữ ấy trên điện tín nhoè nhoẹt vì nước mắt của tôi, nhưng tôi vẫn đọc đi đọc lại cả hàng chục lần, xoay qua xoay lại đủ chiều, tôi hy vọng đã đọc lầm, cái điện tín ấy biết đâu không phải của mẹ tôi gửi cho cha tôi, đến nỗi đứng mãi ở trên gác và khóc sướt mướt mà vẫn chưa tìm được một chi tiết nào phù hợp với hy vọng ấy.
Sau đó, tôi trở xuống nhà dưới, lau mặt thật kỹ, tay vo chặt tờ giấy đáng nguyền rủa ấy và đến bên cha tôi khi ông đã gấp quyển sổ lại, kêu con chó đến vuốt ve. Dưới ánh đèn trông ông hiền từ, tươi tắn, thỉnh thoảng mỉm miệng cười với con chó đang lăng xăng, quấn quít mừng rỡ mà lòng tôi đau nhói. Tôi buồn bã nhìn cha tôi mãi, muốn nói với ông đừng cười. Cha đừng cười như thế. Nhưng chưa nói thì bỗng ông ngửng đầu lên bắt gặp đôi mắt của tôi và giựt mình, mặt biến sắc :
- Anh con chết rồi phải không ? Ông thảng thốt kêu lên, chụp lấy vai tôi. Tôi ngã lăn vào cánh tay ông, thả rơi bức điện tín, rồi cả hai ôm nhau cùng khóc.
Cha tôi kể lể, não ruột :
- Trời ơi ! Con ! Con ! Cha không ngờ. Cha không xứng đáng là cha. Chỉ tại cha bất lực. Đáng lẽ thì cha phải nuôi con, phải để con sống trong gia đình. Cha biết là cha đã lầm khi đưa con ra ở riêng, nhưng biết thì đã muộn. Như thế chẳng khác nào cha đã chạy trốn một trách nhiệm…
Và bây giờ tôi mới lờ mờ hiểu ra rằng việc gửi anh Cả vào nhà tu không do lòng tín ngưỡng mà do vấn đề sinh kế thúc bách, do quyền lợi, cha tôi chắc đã nghĩ đó cũng là một cách giải quyết sự túng quẩn – Anh Cả tôi có nơi ăn, chốn ở và được giáo dục là đỡ một mối lo – Nhưng nếu vậy thì tội không phải ở cha tôi mà tại ở hoàn cảnh vì lẽ dĩ nhiên, cha mẹ nào cũng không muốn con mình bị khổ sở với cuộc đời nghèo nàn.
Tôi nghĩ mà thương cha tôi, ông đã chịu đựng sự đau khổ phải xa rời một đứa con những mười lăm năm nay và bây giờ là vĩnh biệt. Anh Cả tôi đã về bên kia thế giới, đã đi trước cha mẹ tôi khi đáng lẽ những người già như cha mẹ tôi phải làm cái việc ấy ; thực là bất công, thượng đế đã để người già cúi xuống khóc cho người trẻ. Nhìn cha tôi khóc, tôi có cái xót xa rồi một mai ông nằm xuống, anh cả tôi sẽ không được khóc cho ông và đó là một cái tội : tội bất hiếu !
Tội lớn nhứt trong các tội của người con, nhưng lại được mọi người tha thứ bằng tình thương bao la và sự đau khổ tuyệt đỉnh. Và nữa, đứng trước cái chết, kẻ còn lại đã hoàn toàn chịu nhận sự bất lực trong cuộc giành giựt với tử thần về hơi thở và mạch máu một cách thảm hại.
Ngược lại, tôi không muốn thế. Tôi muốn anh Cả tôi phải sống. Tôi liên tưởng đến những chuyện thần tiên và tự hỏi phải chăng phép mầu là những biểu tượng cho một mớ ước vọng quá sức con người hay phép mầu là sự thật chưa được khám phá ?
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận