"Sau Đại hội lần thứ năm của Quốc tế cộng sản, Bác còn dự các cuộc Đại hội Quốc tế công hội đỏ, Quốc tế nông dân, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế thanh niên, Quốc tế cứu tế đỏ (Nopr).
Ở Đại hội Quốc tế phụ nữ, Bác đã gặp nhiều nữ đồng chí Bôn-sơ-vích, trong đó có đồng chí Cơ-rúp-xcai-a (vợ Lê-nin). Đồng chí Cơ-rúp-xcai-a rất chất phác, hiền lành, khiêm tốn và nói tiếng Pháp rất thạo. Đồng chí ân cần hỏi Bác về phong trào phụ nữ Việt Nam và nói cho Bác nghe một số kinh nghiệm về việc hoạt động phụ nữ. Hồi đó đồng chí làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục.
Sau các cuộc đại hội đó, Bác bí mật sang Trung Quốc. Lúc đó, Trung Quốc đang ở trong tình trạng lộn xộn. Ở miền Bắc, bọn quân phiệt Ngô Bội Phu, Đoàn Kỳ Thụy, Trương Tác Lâm… - do các nước đế quốc giật dây – đang đánh nhau lung tung. Ở miền Nam, Quốc dân đảng của cụ Tôn Trung Sơn và Đảng cộng sản đang hợp tác chặt chẽ, do đó mà phong trào cách mạng đang lên cao. Chính phủ cách mạng (Quốc dân đảng) đóng ở Quảng Châu, đang chuẩn bị tiến quân về miền Bắc.
Bác về đến Quảng Châu thì may lại gặp các đồng chí Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Thái Xưởng (vợ đồng chí Lý) và nhiều đồng chí khác mà bác đã quen biết lúc ở Pháp. Đồng chí Mao Trạch Đông hồi đó phụ trách trường huấn luyện nông dân. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ phụ trách phong trào công nhân. Đồng chí Bành Bái phụ trách tổ chức nông dân.
Thiên hạ đều biết rõ hoạt động cách mạng của các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc. Đây Bác chỉ tóm tắt kể chuyện đồng chí Bành Bái. Tuy xuất thân từ một nhà địa chủ phong kiến kếch sù, đồng chí Bành là một trong những người lập nên Đảng cộng sản Trung Quốc. Trước đó, đồng chí đã vận động và tổ chức nông dân ở vùng Hải Lục Phong. Đầu tiên, đồng chí vận động những tá điền của bố mình đòi giảm tô giảm tức, vì vậy, mà bị ông cụ ghét bỏ thậm tệ. May nhờ bà cụ cưng con và cô em gái thương anh, mà đồng chí Bành tiếp tục hoạt động được.
Trong thời kỳ đầu, đồng chí Bành đã gặp nhiều thất bại như: mặc áo tây đến nhà nông dân, họ tránh không chịu gặp, vì họ nghĩ "cậu ấm" đến đòi nợ cho bố. Vì hay nói chữ, nông dân nghe không hiểu. Vì gặp phụ nữ cũng nói chuyện, bị nông dân ghen, v.v… Mỗi lần thất bại, đồng chí đều cố tìm ra nguyên nhân và sửa chữa ngay. Nhờ có quyết tâm và chịu khó, chẳng bao lâu đồng chí đã tổ chức được nông hội khắp hai huyện Hải Phong và Lục Phong. Nông dân hai huyện đã dùng súng ống đánh nhau với những địa chủ ngoan cố. Khi Quốc dân đảng phản bội cách mạng, nông hội Hải Lục Phong vẫn đứng vững và đã che chở được nhiều các bộ bí mật. Công xã Quảng Châu thất bại, đồng chí Bành vâng lệnh Đảng lên hoạt động bí mật ở Thượng Hải, bị bắt và đã oanh liệt hy sinh.
Ở Quảng Châu, Bác vừa làm phiên dịch cho đồng chí Bơ-rô-đin – cố vấn Liên-xô bên cạnh Chính phủ cách mạng Quốc dân đảng – vừa phụ trách mục tuyên truyền trong tờ báo Canton Gazette – báo bằng chữ Anh của Trung ương Quốc dân đảng.
Đến Quảng Châu được ít lâu, Bác cùng các đồng chí Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Tản Anh… tỏ chức hội "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí" chuẩn bị nền tảng cho việc tổ chức Đảng cộng sản sau này. Với sự giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc, hội bí mật đưa một số thanh niên trong nước đến Quảng Châu học ở lớp huấn luyện chính trị. Hội ra một tờ báo Thanh niên in bằng giấy sáp, bí mật gửi về nước để tuyên truyền.
Thế là lời đoán mò cách đây mười mấy năm trước của "quan thượng thư" thuộc địa Pháp đã thực hiện: Phong trào cách mạng từ Pa-ri sang Mát-xcơ-va, từ Mát-xcơ-va sang Trung Quốc, từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Được các đồng chí Trung Quốc đồng ý, Bác tổ chức hội "Á châu bị áp bức dân tộc liên hiệp". Hội này có người Việt Nam, người Trung Quốc, người Ấn Độ, người Triều Tiên v.v… tham gia khá đông và hoạt động khá mạnh. Cụ Liêu Trọng Khải được bầu làm hội trưởng, Bác làm bí thư" [1].
"…Bây giờ ông Nguyễn ở Trung Quốc, ông bắt đầu đi bán thuốc là và bán báo đế sống. Khi mới đến ông Nguyễn còn cảm thấy tiếng vang của mọi việc xảy ra ở Quảng Châu. Mấy tháng trước đây, một thanh niên cách mạng Việt Nam Phạm Hồng Thái, đã ném một quả bom vào Méc-lanh (Merlin), toàn quyền Đông Dương, khi Méc-lanh đến Sa Điện, một tơ giới quốc tế gần Quảng Châu, Méc-lanh thoát chết. Nhưng liệt sĩ Phạm Hồng Thái phải tự vẫn trên sông Châu Giang.
Việc đó tuy nhỏ, nhưng nó báo hiệu bắt đầu thời đại đấu tranh dân tộc, như chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân.
Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp càng ra sức bóc lột Đông Dương. Chương trình bóc lột này được dự tính tỷ mỷ trong quyển sách của An-be Xa-rô (Albert Sarraut): "Khai thác thuộc địa". Toàn thể nhân dân đau khổ vì sự bóc lột đó. Thuế má và tạp dịch tăng lên. Ruộng đất của nhiều làng bị bọn chủ đồn điềnPháp chiếm đoạt. Pháp thi hành chính sách gây nạn đói để làm cho nông dân bần cùng. Giai cấp tư sản và giai cấp tiểu tư sản Việt Nam bị nghẹt thở vì sự áp bức nặng nề của tư bản thuộc địa. Một giai cấp thợ thuyền mới ra đời. Từ 1862 tiếng súng kíp của đội quân Cần vương chống lại đại bác của bọn xâm lược Pháp, cuộc chiến đó vẫn tiếp tục. Nó tiếp tục đến năm 1885 dưới sự lãnh đạo của cụ Phan Đình Phùng, năm 1887 dưới sự lãnh đạo của cụ Hoàng Hoa Thám, năm 1917 dưới sự lãnh đạo của cụ Lương Ngọc Quyến và nhiều nhà chí sĩ khác. Có một lúc tạm yên sau đại chiến lần thứ nhất. Và bây giờ tiếng bom của Phạm Hồng Thái đã nhóm lại ngọn lửa chiến đấu.
Trung Quốc cũng bị các tập đoàn quân phiệt chia sẻ, bọn này được đế quốc giúp đỡ. Nhưng lòng yêu nước của nhân dân Trung Quốc bắt đầu thức tỉnh. Lời kêu gọi của Bác sĩ Tôn Dật Tiên bắt đầu truyền bá. Một phong trào dân tộc vĩ đại bắt đầu. Trước hết là cuộc đấu tranh chống Nhật, liên hợp tất cả các giai cấp trong nước. Sau đó là sự tẩy chay Anh ở Hương Cảng do công nhân phát động. Rồi đến đội quân Bắc phạt chống bọn quân phiệt để thống nhất Trung Hoa, do Bác sĩ Tôn Dật Tiên và những người đồng chí của ông lãnh đạo.
Ông Nguyễn bị lôi cuốn vào cuộc vận động này.
Đọc quảng cáo trên tờ "Quảng Châu nhật báo" ông tìm đến làm phiên dịch cho ông Bô-rô-đin, cố vấn chính trị của Bác sĩ Tôn Dật Tiên và của chính phủ Quảng Châu. Ông dịch những tờ báo Trung Quốc ra tiếng Anh. Ông để hết tâm lực nghiên cứu chính trị Trung Quốc.
Ba nguyên tắc của Bác sĩ Tôn Dật Tiên là:
- Dân tộc
- Dân quyền
- Dân sinh
Vừa nghiên cứu vừa làm việc để sống, ông Nguyễn vẫn ra sức làm việc cho Tổ quốc mình, Ông bắt đầu tổ chức đồng bào Việt kiều ở Trung Quốc, tổ chức này gọi là "Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội".
Để tuyên truyền, ông xuất bản một tờ tuần báo "Thanh niên".
Được sự giúp đỡ của ông Liêu Trọng Khải, ông Nguyễn tổ chức hội "Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á đông".
Trong tổ chức này, có người Việt Nam, người Triều Tiên, người Nam Dương, v.v…
Đoàn thể này giống hội Liên hiệp thuộc địa mà ông Nguyễn đã tổ chức ở Pa-ri.
Được sự cộng tác của Đảng cộng sản Trung Quốc quân đội cách mạng của Bác sĩ Tôn Dật Tiên đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Bọn quân phiệt lần lượt bị đánh bại. Trong một thời gian ngắn, chính quyền Quốc dân Đảng Quảng Châu đã lan rộng khắp nửa Trung Quốc.
Hoạt động của "Hội thanh niên cách mạng đồng chí" bắt đầu lan vào trong nước. Thực dân Pháp gián tiếp giúp đỡ rất nhiều. Vì sao vậy?
Trong khi tài liệu và báo chỉ của ông Nguyễn bí mật lọt vào nước rất khó khăn, thì bọn thực dân đều làm to chuyện để yêu cầu đàn áp. Đó là một quảng cáo rất tốt cho công việc của ông, làm cho đồng bào chú ý, làm cho bọn họ càng thích được nghe tuyên truyền cách mạng.
Hơn nữa, thực dân Pháp đã phạm một sai lầm là bắt nhà lão chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, lúc bấy giờ ở Trung Quốc, và muốn kết án tử hình cụ Phan. Tất cả nhân dân Việt Nam nổi dậy chống lại vụ án này và yêu cầu thả cụ Phan. Chưa bao giờ có một phong trào quần chúng rộng rãi như vậy. Đây là một dịp tốt cho ông Nguyễn tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước.
Muốn ru ngủ và lung lạc người Việt Nam thực dân Pháp cử Va-ren (Alexandre Varenne), đảng viên đảng xã hội Pháp làm toàn quyền Đông Dương. Lúc đầu, người Việt Nam phấn khởi, nhất là thanh niên.
Nhưng Va-ren ngay từ đầu khi thi hành chính sách hết sức phản động. Người Việt Nam sớm tỉnh ngộ và vì vậy sẵn sàng đáp lại kêu gọi của ông Nguyễn: "Muốn tự giải phóng phải trông vào lực lượng của mình".
Nhà lão ái quốc Phan Chu Trinh ở Pháp về Việt Nam. Về được một năm thì cụ mất. Từ Bắc chí Nam, nhân dân ta tổ chức đám tang rất lớn. Bọn cầm quyền Pháp can thiệp cấm những cuộc truy điệu và bắt bớ những thanh niên, sinh viên hăng hái nhất trong cuộc vận động đó. Sự can thiệp này đã thổi thêm ngọn lửa yêu nước và một lần nữa giúp cho sự tuyên truyền yêu nước của ông Nguyễn và của hội Thanh niên.
Ông Nguyễn mở những lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu. Những thanh niên Việt Nam phần lớn là học sinh, trốn ra dự những lớp này, để học làm cách mạng, cách hoạt động bí mật. Học xong họ lại bí mật về nước truyền bá lý luận giải phóng dân tộc, và tổ chức nhân dân…” [2]
"Thành phố Quảng Châu (Trung Quốc) có nhiều quan hệ mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta trong những năm hai mươi thế kỷ này. Ở đấy, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã sống và hoạt động trong mấy năm để xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng.
Theo tài liệu[3] thì Hồ Chủ tịch từ Liên-xô về đến Quảng Châu và giữa tháng 12-1924. Ở Quảng Châu, Người lấy tên là Lý Thụy. Sau khi tìm hiểu và rút kinh nghiệm về hoạt động của Tâm Tâm xã, Hồ Chủ tịch chọn một số thanh niên yêu nước trong tổ chức đó và nhiều người khác từ trong nước ra, mở các lớp chính trị để đào tạo thành những cán bộ cách mạng rồi cử về nước hoạt động. Người sáng lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, một tổ chức tiền thân của Đảng, trong đó nòng cốt lãnh đạo là Cộng sản đoàn; xuất bản tờ tuần báo Thanh niên, là cơ quan của Tổng bộ thanh niên. Người tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á đông trong đó chi hội Việt Nam, để đoàn kết nhân dân các thuộc địa cùng đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Những bài giảng của Hồ Chủ tịch tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu được tập hợp lại và in thành cuốn Đường cách mạng, tài liệu này có tác dụng lớn đối với việc giáo dục cán bộ và phát triển cách mạng Việt Nam, đồng thời đặt nền tảng cho cương lĩnh của Đảng ta về sau. Ngoài việc huấn luyện chính trị, Hồ Chủ tịch còn dạy thanh niên học văn hóa và tiếng Anh nữa.[4]
"Đây là một nhà cũ ba tầng (một tầng dưới và hai gác) gồm có hai nhà bên trong có cửa thông sang nhau. Hồi 1924-1927 nhà đó mang số 13 và 13-1 phố Văn Minh, nay là số 422 đường Diên An 2. Nhà có cửa mở ra phố, bên kia đường là một khu nhà lớn trước kia là trường đại học Quảng Đông. Nhà làm lâu năm, nhiều bộ phận hỏng được chữa lại không giống như cũ: sau khi lập nhà bảo tàng, các đồng chí Trung Quốc lại cho thay cầu thang, sàn gác và một vài bộ phận khác đã yếu mọt. Khi chúng tôi đến thăm, măt trước nhà còn đang dựng giàn giáo để chữa nóc nhà và bao lơn, cửa sổ.
Các đồng chí phụ trách Nhà bảo tàng nói về những hoạt động của Hồ Chủ tịch ở Quảng Châu trong thời kỳ 1924-1297 – như tài liệu đã có – và cho biết thêm: Hồi đó, các đồng chí Việt Nam sử dụng chủ yếu là gác ba của hai nhà; còn những tầng dưới là nhà dân. Hồ Chủ tịch không ở đây; hàng ngày Người đi bộ tới làm việc và giảng bài; từ nơi Người ở đi đến đây mất khoảng 10 phút; ngôi nhà ở của Hồ Chủ tịch nay không còn nữa. Ở tầng ba, gác nhà số 13 được dùng làm trụ sở của Thanh niên cách mạng đồng chí hội, còn nhà số 13-1 là lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên. Hồ Chủ tịch mở được ba khóa huấn luyện thanh niên, thời gian mỗi khóa từ 3 đến 4 tháng; lớp thứ nhất có 5 học viên, lớp thứ hai: 15 và lớp thứ ba: hơn 30 người. Ngoài một số thanh niên học ở đây, còn một số ít hơn được đưa đến học trường quân sự Hoàng Phố. Khi học xong, các học viên tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội, rồi phần lớn được cử về nước hoạt động cách mạng, một số ở lại tham gia cuộc đấu tranh cách mạng của Trung Quốc. Chương trình học là những bài tập hợp trong cuốn Đường cách mạng; ngoài ra, còn học và nghe nói chuyện về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lịch sử cách mạng Việt Nam, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ…, lịch sử Quốc tế thứ 1, thứ 2, thứ 3, lịch sử đấu tranh của phụ nữ, thanh niên và nông dân thế giới… Hồi ấy, các đồng chí Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Đặng Dĩnh Siêu cũng đến giảng một số bài ở lớp huấn luyện. Trong thời kỳ 1924-1927, cuộc đấu tranh cách mạng ở Quảng Châu diễn ra gay gắt vào phức tạp. Hồi ấy, có sự hợp tác giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng bọn Tưởng Giới Thạch luôn luôn tìm cách chống Đảng Cộng sản và làm hại những nhân sĩ yêu nước, tiến bộ. Trong khi ấy, ở tỉnh Quảng Đông và vùng lân cận có nhiều bọn quân phiệt hoạt động. Vụ Phạm Hồng Thái ném bom định giết tên toàn quyền Méc-lanh hồi tháng 6-1924 có tác dụng thúc đẩy mạnh phong trào cách mạng Việt Nam, đồng thời làm cho bầu không khí chính trị Quảng Châu càng sôi nổi. Trong tình hình đó, với sự giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc, Hồ Chủ tịch đã đặt nơi mở các lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên và trụ sở Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở lẫn vào nhà dân lao động, và những nguyên tắc bí mật được thực hiện nghiêm khắc trong mọi hoạt động của các bộ ta. Các đồng chí Trung Quốc rất chú ý bảo vệ căn nhà số 13, 13-1 phố Văn Minh: từ các phía chung quanh nhà đó đều có cơ quan của Đảng cộng sản Trung Quốc, trong trường đại học Quảng Đông ở trước nhà cũng có một chi bộ đảng. Tới năm 1926, khi bọn Tưởng trắng trợn trở mặt khủng bố cách mạng, thì các đồng chí Trung Quốc chuyển hướng hoạt động và Hồ Chủ tịch rời Quảng Châu.
Chúng tôi đã đi xem các nơi trước đặt cơ quan. Hai căn gác diện tích bằng nhau, thông sang nhau bằng một cửa ở trong nhà và cái sân sau. Mỗi gác là một phòng hình chữ nhật, dài 12 mét, rộng 4 mét, phía trong hẹp hơn phía ngoài một ít; nhà không có trần, từ sàn lên mái chỗ thấp nhất khoảng 3 mét rưỡi. Chỉ có một cầu thang nối tầng dưới với gác nhà số 13. Phần lớn diện tích trong phòng là chỗ làm việc của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (nhà số 13) và lớp huấn luyện chính trị (nhà số 13-1), trừ hai buồng nhỏ che ván gỗ làm chỗ ngủ của cán bộ Hội và học viên. Hai phòng đều có cửa ra sân sau; ở đây mỗi bên có một khoảng trống, có mái và tường thấp bao quanh, để thông gió xuống tầng dưới. Ở sân sau gác số 13 có một cái bếp rất nhỏ, người nấu phải đứng bên ngoài, đấy là nơi cán bộ và học viên nấu cơm ăn hàng ngày.
Các đồng chí phụ trách Nhà bảo tàng cho biết: ông chủ nhà này họ Lâm. Khi được biết nhà mình trước kia là một nơi Hồ Chủ tịch đã hoạt động cách mạng, ông Lâm vui vẻ hiến nhà để làm Nhà bảo tàng lưu niệm. Rất say sưa với công việc của mình, các đồng chí phụ trách Nhà bảo tàng đã sưu tầm được một số tác phẩm của Hồ Chủ tịch và một số sách viết về đời hoạt động của Bác. Điều mong muốn và cũng là khó khăn của các đồng chí ấy là làm sao tìm biết được nhiều chi tiết cụ thể về ngôi nhà hồi 1924-1927 để có thể xây dựng, sắp xếp Nhà bảo tàng gần giống như ngôi nhà cũ, nhất là ở hai phòng tầng ba. Năm 1971, Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang thăm hữu nghị Trung Quốc, có qua Quảng Châu và đến thăm Nhà bảo tàng. Các đồng chí phụ trách ở đây rất sung sướng được đồng chí Thủ tướng Việt Nam chỉ dẫn cho một số chi tiết trong nhà, và các đồng chí đang cho sửa chữa cho phù hợp.
Nhà bảo tàng này, sau khi được xây dựng xong, sẽ ghi lại hình ảnh ngôi nhà số 13 và 13-1 phố Văn Minh là nơi cách đây gần nửa thế kỷ, được Bác Hồ dùng làm trụ sở Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội và huấn luyện chính trị cho thanh niên Việt Nam; nhắc lại một thời kỳ có ý nghĩa lịch sử, khi Bác đào tạo cán bộ cách mạng và chuẩn bị thành lập Đảng ta, đồng thời tham gia cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng cộng sản Trung Quốc. Đấy còn là một bằng chứng sinh động về mối quan hệ khăng khít giữa những người cộng sản Việt Nam và những người cộng sản Trung Quốc, về tình đoàn kết chiến đấu vĩ đại Việt – Trung.” [5]
"…Khoảng tháng 7 năm 1926, hai anh Phạm Trọng Bình và Lợi ở Quảng Châu về Sài Gòn gặp tôi. Hai anh kể cho tôi biết quá trình đi của các anh, và nói đã được gặp ông Nguyễn. Tất nhiên, các anh không kể hết và cũng không nói đã học hành như thế nào, tôi cũng không muốn hỏi kỹ. Chỉ hiểu là lần đầu tiên, chuẩn bị ra đi, tôi thấy sung sướng hồi hộp… Anh Bình bảo tôi viết một bức thư bí mật, báo cáo qua tình hình từ khi các anh về và giới thiệu ba người chúng tôi (anh Ngô Thiêm và một người nữa lâu ngày tôi quên tên, và tôi). Ngoài phong bì đề địa chỉ: Quảng châu thị, Huệ Ái Đông lộ, Trần Nhi Cô, chuyền giao Lương…nữ sĩ. Tôi bụng dạ bảo, mừng thầm, thư này chắc chắn sẽ đến tay ông Nguyễn.
Một đêm tháng chín, với bộ quần áo công nhân, chúng tôi ra bến tàu Khánh Hội, xuống chiếc tàu Đại Phúc Tinh. Mấy anh thủy thủ đón sẵn. Lập tức người ta đưa chúng tôi lần mò trong đêm tối mịt, rồi đưa vào một nơi, đóng cửa lại. Lấy tay sờ soạng, chúng tôi thấy mình đang ở trong một cái khuông rất hẹp, ngồi đứng đều không được. Tôi thấp mà phải co lại như con tôm mới có thể nằm xuống. Còn hai anh kia thì đứng nghiêng nghiêng. Hồi lâu chúng tôi mới biết đấy là cái mạn tàu hai mê. Đứng trong mạn tàu, mình nghĩ mình như thân con kiến, nhưng lại nghĩ: chuyến này mà thoát, gặp được ông Nguyễn… thì cũng thỏa. Cứ như thế từ mười hai giờ đêm trước đến hai giờ chiều sau, tàu ra khỏi hải phận, bọn "ma tà" bên bờ, người ta mới dám mở cho chúng tôi ra, mọi người đã đẫm mồ hôi, như kẻ chết trôi mới vớt lên.
Anh em công nhân đưa chúng tôi vào buồng, hòa sữa cho uống. Thế là thoát "Con chim đã sổ lồng".
Độ năm ngày đêm, đến Hương Cảng, tàu bốc hàng xong. Nhưng vì không có hàng đi Quảng Châu, anh em công nhân lại tìm cách gửi chúng tôi sang chiếc tàu "Quảng Tây". Lại bị giấu một lần nữa; nhưng lần này không phải vì chính trị, mà vì kinh tế; không có tiền tàu… Lần này, chúng tôi không phải là con kiến nữa, mà là những con vịt. Ngồi lom khom dưới đáy tàu, nước đến nửa ống chân. Hơn một tiếng đồng hồ, đợi người soát vé xong, anh em đưa chúng tôi lên.
Chúng tôi được đưa vào gian buồng đặc biệt của anh công nhân thợ máy, tên là Lý Hoa. Anh cho chúng tôi ăn kẹo, bánh, hút thuốc lá.
Khoảng năm giờ chiều, tàu đến Quảng Châu. Chúng tôi được đưa đến một nơi, thấy có anh em công nhân nằm ngồi la liệt, người xem báo, kẻ nói chuyện. Sau đó, một anh công nhân rủ chúng tôi đi ăn cơm. Ăn uống xong lại ngủ một đêm. Anh công nhân ấy lại đưa chúng tôi đến một nơi khác, bảo chúng tôi đi với một người khác nữa. Người ấy đưa chúng tôi đi…
Lên cầu thang gác thứ ba, có mấy cậu bé đưa chúng tôi vào. Trong số các cậu bé, sau này tôi biết có đồng chí Lý Tự Trọng. Một lúc nữa, có một người thanh niên đến, tuổi chừng hai mươi, ăn mặc lối học sinh, có vẻ hoạt bát, linh lợi, tự giới thiệu là Hoài.
Sau khi kể chuyện đường đi của mình, anh Hoài cho biết những người thủy thủ trên tàu đều đã có tổ chức và đám người công nhân ở nhà kia là những người bãi công ở Hương Cảng, được Chính phủ Quảng Đông đưa về nuôi dưỡng và học tập.
Gian nhà này ở trong một căn nhà dài, đối diện với trường Quảng Châu đại học. Trong nhà, trên tường chính giữa ngảnh mặt ra, có chân dung Mác, Ăng-ghen, Lê-nin. Hai tường bên treo chân dung Sta-lin và Tôn Trung Sơn đối diện nhau. Phía ngoài cửa ngảnh vào, treo chân dung Phạm Hồng Thái. Đây là lần đầu tiên, được nhìn các chân dung kể trên một cách rõ ràng. Chúng tôi bảo nhau nhìn cho "no". Ở trong nước, chúng tôi chỉ được nhìn ở nơi thầm kín, đâu mà được thấy trong ánh sáng như thế này. Đứng nhìn, đi nhìn, mà hình như các vị cũng đương nhìn mình và nhìn cả từng bước đi của mình nữa…
Sau đó, một vài đồng chí đến gặp chúng tôi hỏi tình hình trong nước. Có lẽ vừa hỏi và cũng vừa khảo sát chăng? Có một người mặc quần áo học sinh Trung Quốc, trạc chừng ngoài ba mươi tuổi, mắt sáng, gò mà cao, vui vẻ hoạt bát, nói năng hùng biện, tên là đồng chí Lương; một người thì mặt hơi to, thường đeo kính, béo, hay mặc âu phục, tên là Trương. Một người nữa, mặc bộ quần áo Trung Sơn (trong suốt thời gian chúng tôi ở Quảng Châu, lúc nào cũng chỉ thấy mặc có một bộ này), dáng người mảnh khảnh cao, trán rộng, mắt sáng, giọng nói khoan thai, ấm áp… vui tính những ít cười, gọi là đồng chí Vương.
Trong một buổi nói chuyện thân mật về tình hình trong nước, chúng tôi kể từ chuyện quan trường, vua chúa thối nát, đến chuyện gặp cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Văn Trường, đến chuyện anh em thanh niên bồng bột nông nổi, chuyện Bắc, Nam còn thành kiến, v.v… Tóm lại, trong khi kể chuyện, chúng tôi tỏ ra bi quan nhiều. Cuối cùng, đồng chí Vương nói, đại ý: Cũng vì khó khăn thế, còn nhiều điều xấu xa như thế, cho nên chúng ta phải làm cách mạng. Người cách mạng phải là người lạc quan chủ nghĩa, tin tưởng ở sự thắng lợi cuối cùng v.v…
"Lạc quan chủ nghĩa". Sau này tôi mới hiểu hết ý nghĩa của nó. Nhưng khi ấy, tôi đã thấy nó là một liều thuốc chữa trúng bệnh của tôi. Nhờ thuốc ấy, sau này mỗi khi gặp khó khăn nguy hiểm, tôi đã vui vẻ vượt qua!
Trong cuộc nói chuyện, chúng tôi thấy đồng chí Vương tuy xa nước đã lâu, nhưng đồng chí biết rất thành thuộc tình hình trong nước: năm nào Pháp cướp lúa gạo của ta chở sang Pháp bao nhiêu, năm nào ngân hàng Pháp được lời bao nhiêu, v.v… cho đến chuyện tên toàn quyền Va-ren đã cướp đồ cổ của Việt Nam chở sang Pháp bao nhiêu hòm; nó có mấy người bồi, mấy con chó. Mỗi con chó của nó ăn mỗi thắng bao nhiêu. Với tiền nuôi chó ấy, một người nông dân Việt Nam ăn được hàng năm, hay bằng mấy lần tiền lương hàng tháng của một công chức nhỏ người Việt, v.v…Những con số chân thật và mỉa mai ấy làm cho chúng tôi căm thù và ứa nước mắt…
Ngày khai mạc lớp học, anh em đến đầy đủ, trước buổi khai mạc, gần năm mươi anh em chúng tôi đều phải viết bản "Ngôn chí", nói rõ nghề nghiệp và động cơ của mình ra ngoài. Khi làm lễ khai mạc, học viên cử đại biểu phát biểu ý kiến. Tôi cũng là một người "bị" anh em cử đứng lên nói. Tôi lúc ấy thật là lúng túng; đứng lên, tim đập thình thịch, mặt đỏ bừng rồi tái mét, trông một người thành hai, ba người, cái bàn hình như nâng lên rồi hạ xuống. Một hồi, tôi mới nói được.
Địa điểm lớp học, hình như ở đường Văn Minh thì phải, đối diện với một Hội quán Tổng Nông hội, cách nhau một quảng trường. Ở đấy, vừa là Hội quán vừa là ký túc xá của lớp huấn luyện cán bộ Nông vận tỉnh Quảng Đông. Hàng ngày chúng tôi cũng sang ăn cơm ở bên đó. Sau khi lớp chúng tôi mở, Tổng Nông hội mở tiệc trà hoan nghênh.
Ngoài cửa lớp học, treo một cái biển có chữ lớn "Đặc biệt chính trị huấn luyện ban". Tiền chi phí của lớp học do Đảng cộng sản Trung Quốc giúp một phần, các tổ chức giúp một phần, anh em sĩ quan và học sinh quân Việt Nam ở trường Hoàng Phố hàng tháng bớt tiền lương đóng góp một phần.
Chương trình học đại khái là: trước hết, học "nhân loại tiến hóa sử" nhưng chủ yếu là học từ thời kỳ tư bản chủ nghĩa đến đế quốc chủ nghĩa. Đối với tôi khi ấy, chưa nói gì nội dung sâu xa, ngay hiểu được những danh từ như "tờ-rớt", "xanh-đi-ca",v.v… thật là nhức óc. Sau đó học đến lịch sử vận động giải phóng của Triều Tiên, Trung Quốc, Ấn Độ và lịch sử mất nước của Việt Nam. Chúng tôi cũng học các thứ chủ nghĩa như: chủ nghĩa Găng-đi, chủ nghĩa Tam-dân một cách có phê phán và chủ nghĩa Mác-Lê-nin, kết hợp với lịch sử cách mạng tháng Mười.
Về phần tổ chức, chúng tôi học lịch sử và tổ chức Quốc tế và các tổ chức phụ nữ, thanh niên quốc tế, quốc tế cứu tế đỏ và quốc tế cứu tế, quốc tế nông dân.
Phần cuối cùng là phần vận động quần chúng và tổ chức quần chúng như vận động công nhân và hệ thống tổ chức công hội, vận động nông dân và tổ chức nông hội; thanh niên cũng vậy. Trong khi học vận động quần chúng, có tổ chức tuyên truyền thực tập. Một người đóng vai là người đi tuyên truyền. Nhiều người khác đóng vai là người công nhân, nông dân hay học sinh ngồi nghe và đặt ra câu hỏi để người nói phải trả lời. Sau đó anh em phê bình và rút kinh nghiệm.
Đối với tôi, hệ thống tổ chức công nhân, nào tổ chức ngang, nào tổ chức dọc, vẽ lên hàng như màng nhện, thật rối như canh hẹ.
Ngoài việc lên lớp, sau mỗi tuần có "báo cáo học vấn" ở các tiểu tổ. Mọi người lần lượt báo cáo về lý luận của mình đã biết được. Nếu có sai thì anh em bổ sung cho. Có cả viết "học báo" nữa. Thường có những cuộc phê bình và tự phê bình.
Trong nhưng buổi họp, đồng chí Vương là người phụ trách giảng nhiều nhất. Đồng chí Hồ Tùng Mậu tức đồng chí Lương và Hoài là người trực tiếp hướng dẫn, giải đáp.
Trong khi học, chúng tôi thấy cái gì ở đồng chí Vương? Đồng chí giảng rất dễ hiểu. Đồng chí Vương nhớ những con số rất tài, ai cũng phải khâm phục. Thường khi các đồng chí giảng viên cũng phải hỏi con số ở đồng chí Vương. Đồng chí Vương còn khéo léo dùng những con số để cắt nghĩa những vấn đề phức tạp làm cho học sinh dễ hiểu. Đồng chí nói: cần chú ý tác dụng của con số, vì nó là những tài liệu thực tế làm cho người ta trông thấy sự thật. Như Lê-nin thường nói: Người nông dân tin con số hơn lý thuyết. Dù khó nhưng cũng phải cố gắng nhớ.
Mọi người rất thích đồng chí Vương đến giảng hay tham gia các cuộc báo cáo học vấn ở tổ. Vì cũng một vấn đề ấy mà được đồng chí Vương giảng hay giải đáp thì mọi người dễ nắm được vấn đề hơn là với đồng chí Lương hay đồng chí Hoài. Nhờ có cách giảng hay khéo léo ấy, mà chúng tôi tuy trình độ còn thấp kém, và chỉ được học tập trong thời gian ba, bốn tháng (vì đi lâu, đế quốc nghi), nhưng sơ bộ chúng tôi hiểu được. Mọi người lại rất sợ đồng chí Vương hỏi. Vì đồng chí hỏi những câu mới nghe rất thường, dễ trả lời, nhưng khi bị hỏi văn lại, hỏi sâu vào, thì anh em rất lúng túng.
Đồng chí Vương thường dạy chúng tôi chú ý về thái độ với quần chúng. Đồng chí nói: "Đế quốc Pháp nó dạy cho thanh niên mình hỏng, Tây không ra Tây, Nam không ra Nam, như thế không gần được với quần chúng”.
Đồng chí Vương công việc rất nhiều, nhưng không bao giờ đến chậm giờ giảng. Ngoài thì giờ làm việc, đồng chí còn viết bài trên các báo Thanh niên, Phụ nữ, Quân nhân cách mạng. Nghe nói đồng chí còn dạy chữ quốc ngữ cho mấy anh em làm bồi ở Hương Cảng về ở Quảng Châu nữa.
Lớp học bế mạc, chúng tôi được tổ chức vào Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, chúng tôi đi viếng mộ Phạm Hồng Thái và mỗi người đều tuyên thệ: "Nguyện hiến thân cho tổ quốc, dù hy sinh cũng không từ".[6]
"… Đồng chí Vương hẹn gặp tôi ở một phố Quảng Châu, trước một công ty bách hóa lớn. Sa Điện chỉ cách Quảng Châu có một cái cầu, qua một nhánh của con sông Châu. Tôi tới chỗ hẹn vào một buổi trưa mùa đông. Đồng chí Vương đã đợi tôi ở chỗ hẹn, chìa tay bắt tay tôi, vồn vã, niềm nở ngay từ phút đầu. Tôi không nhớ một cách cụ thể hình dáng Bác lúc bấy giờ, chỉ có ấn tượng là đồng chí Vương còn trẻ lắm, - khi ấy Bác mới ba mươi lăm tuổi – Người gầy, nhưng khỏe mạnh, đôi mắt rất sáng. Đồng chí Vương mặc một bộ quần áo kiểu Tôn Trung Sơn. Cũng như đồng chí Ích, đồng chí Vương rất nhanh nhẹn, hoạt bát, nhanh nhẹn mà vẫn từ tốn, hoạt bát mà vẫn ôn tồn, cử chỉ và lời nói thì dịu dàng thân mật, khiến cho tôi gần gũi ngay. Đồng chí Vương rủ tôi vào trụ sở một công hội khu phố. Bây giờ phong trào công hội rất rầm rộ ở Quảng Châu và ở khắp các tỉnh khác của Trung Quốc. Mình muốn họp, là anh em thu xếp chỗ ngay cho.
Đồng chí Vương hỏi tuổi, hỏi công việc làm ăn của tôi, hỏi hoàn cảnh lính ta dưới tàu chiến Pháp, hỏi tình hình đồng bào trong nước. Hồi ấy, Pháp đang ra sức vơ vét của cải, bóc lột dân ta để bù đắp vào những thiệt hại của chúng do cuộc đại chiến lần thứ nhất gây ra. Chúng mộ phu đi làm ở Hòn Gai, Cẩm Phả, đi vào đồn điền cao su trong Nam. Đời sống của những anh em ấy thật là trăm cay nghìn đắng. Dân quê thì luôn luôn thiên tai, hết lụt đến hạn. Tôi lấy làng tôi ra làm ví dụ, lụt liền ba năm, nhiều bà con chỉ còn cái xác, thế mà vẫn phải è cổ ra mà đóng sưu cao, thuế nặng. Tôi được dịp thổ lộ những nỗi uất ức của tôi. Đồng chí Vương chăm chú lắng nghe. Nghe xong đồng chí nói, tôi không nhớ lời được, chỉ nhớ là đồng chí Vương nhấn mạnh vào nhiệm vụ đấu tranh chống đế quốc Pháp, và tuyên truyền yêu nước cho tôi. Rồi đồng chí lại hỏi tôi được học đến đâu? Tôi nói nhà nghèo, chẳng được học mấy. Đồng chí Vương bảo tôi: "Đấy, các đồng chí cũng thất học. Chúng ta cần giúp đỡ nhau học thêm…"
Buổi gặp đầu tiên ấy cũng ngắn thôi. Nhưng đối với tôi, đấy là kỷ niệm sâu sắc. Gặp đồng chí Ích, tôi đã phấn khởi. Gặp đồng chí Vương, tôi càng phấn khởi hơn. Không những tôi nhận thấy ở đồng chí Vương một người có một tấm lòng yêu nước sâu rộng, mà còn tìm thấy ở đồng chí một người anh săn sóc mình từng li từng tí. Nhưng điều tôi thích nhất vẫn là cách đối xử thân mật và những lời nói ôn tồn, thấm thía của đồng chí Vương.
Cách đó không lâu, tôi được kết nạp vào Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Trong buổi lễ kết nạp, đồng chí Vương cũng có mặt. Từ đó, mỗi tuần hai kỳ, tôi từ Sa Điện sang Quảng Châu, dự lớp huấn luyện chính trị, mở cho một số anh em chúng tôi và do đồng chí Vương và đồng chí Ích hướng dẫn. Trí óc tôi dần dần mở mang. Đấy là những ngày tôi say sưa với một tài liệu rất quí báu là cuốn "Đường cách mạng", cuốn này dó chính Bác soạn ra. Ngoài giờ huấn luyện chính trị, đồng chí Vương còn dạy chúng tôi học thêm văn hóa, như dạy học tiếng Anh chẳng hạn. Trong những ngày này, chúng tôi thường gặp đồng chí Vương ở các trụ sở công hội, hoặc ở nhà chúng tôi thuê làm cơ quan để hội họp. Cũng có khi đồng chí Vương hẹn gặp chúng tôi ở một chỗ rồi kéo chúng tôi đi trên hè phố nói chuyện. Những lúc gần gũi như thế, tôi thấy đồng chí Vương không bỏ qua một việc gì, dù nhỏ, nhằm uốn nắn, giáo dục chúng tôi. Một hôm, nhân một câu chuyện gì đó về lính thủy, chúng tôi gọi anh em là họ. Đồng chí Vương cười và hỏi: Đấy là anh em mình cả, sao lại gọi là họ? Lời nói thật là ôn tồn, và tôi nhận ra rằng gọi như thế tức là đã có ý bỉ thử, phân chia người này với người khác.
Việc học tập chính trị và văn hóa đang tiến hành, một hôm trong cuộc họp chung, đồng chí Vương nói hiện nay trong nước đang cần người về hoạt động và hỏi chúng tôi ai tình nguyện về nước? Tôi giơ tay xin về. Đang tuổi thanh niên, tôi rất ham hoạt động, có việc gì là đi. Tôi làm dưới tàu binh Pháp, lương tháng không đến nỗi ít ỏi, thế nhưng tôi bỏ phăng. Đồng chí Vương gặp riêng tôi, hỏi đã nghỉ việc chưa, đã sẵn sàng chưa? Đồng chí căn dăn tôi khi về nước, thì tìm gặp những bạn cũ ở quê nhà hay ở thành phố, vẫn có tinh thần với mình. Trong bất cứ câu chuyện gì, cũng gợi đến cảnh Pháp áp bức bóc lột. Nếu bà con tỏ ý đồng tình, thì hỏi: ta cứ chịu để cho nó áp chế mãi sao? Bà con sẽ hỏi sức đâu mà chẳng chịu? Nói: sức mạnh là ở đoàn kết, đoàn kết thì súng của giặc là vũ khí của mình. Dần dần đưa bà con vào các phường họ, các hội ái hữu, tương tế. Người tích cực thì tổ chức vào Hội trước. Người tốt tổ chức sau. Cứ thế mà mở rộng phong trào. Đồng chí Vương dặn dò tôi cặn kẽ, tỉ mỉ nhất là vấn đề giữ bí mật. Trước khi chia tay, đồng chí Vương lại bảo tôi phải chú ý một điểm: Mình ở ngoài nước về, thường là có mật thám theo. Cho nên mới về nước, không nên đi lung tung ngay, chưa nên vào nhà ai vội. Không những thế, nếu cần còn phải đóng vai người chơi bời để mật thám không chú ý…”[7]
[1] T. Lan, "Vừa đi vừa kể chuyện", Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, năm 1963.
[2] Trần Dân Tiên, "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch", Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1975.
[3] Cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh (tóm tắt tiểu sử và sự nghiệp của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng), Nhà xuất bản Sự Thật.
[4] Hồi ký "Những lần gặp Bác" của đồng chí Nguyễn Lương Bằng, đăng trên báo Nhân Dân, ngày 08-05-1960.
[5] Quang Thái – "Nhà số 13 phố Văn Minh, Quảng Châu", báo Nhân Dân.
[6] Lê Mạnh Trinh, "Những ngày ở Quảng Châu và Xiêm", trong tập "Bác Hồ", Nhà xuất bản văn học, năm 1960.
[7] Nguyễn Lương Bằng "Những lần gặp Bác", trong tập "Bác Hồ", Nhà xuất bản Văn học, năm 1960.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận