Tuy bọn Quốc dân đảng khủng bố tợn, Bác vẫn rán ở lại Quảng Châu một thời gian, vì Bác cần bí mật liên lạc với các đồng chí Trung Quốc, và cần duy trì công việc của hội "Thanh niên cách mạng đồng chí". Nhưng một đêm đã khuya, vào đầu tháng năm 1927, đồng chí Lĩnh (người Việt Nam, tốt nghiệp tại Trường quân quan Hoàng Phố, làm việc ở sở Công an) đến báo tin: "Chúng sắp bắt anh đấy! Tính thế nào anh phải tính nhanh đi!". "36 chước, chước "chuồn" là hơn”. Bác liền bí mật đi Hương Cảng.
Đến Hương Cảng, bị sở mật thám Anh xét hỏi. Cũng như đối với mật thám Pháp, mật thám Ý, lần này gặp mật thám Anh, Bác cũng đối phó xong xuôi, dù lần này khó khăn hơn nhiều. Chúng bảo Bác phải rời khỏi Hương Cảng trong 24 giờ.
Lên Thượng Hải, bọn Quốc dân đảng cũng khủng bố gắt. Để che mắt mật thám, Bác mặc thật bảnh, ở khách sạn thật sang. Nhưng mưu mô ấy không thể kéo dài, tốn tiền quá.
Chỉ còn một cách là chạy về Tổ quốc cách mạng – chạy về Liên-xô. Bác làm việc một thời gian ở Mát-xcơ-va, và ở Bá-linh rồi ở Pa-ri. Cố nhiên, lần này không đến gặp quan thượng thư thuộc địa, và phải hết sức khéo léo tránh mặt những người “bạn” mật thám Pháp đã quen thuộc Bác năm xưa... Bác được phái đi dự cuộc hội nghị quốc tế “chống chiến tranh đế quốc” ở Bơ-rúc-xen, thủ đô nước Bỉ. Đến ga xe lửa, thì Bác gặp đồng chí Xan Ca-ta-da-ma – người sáng lập Đảng cộng sản Nhật. Vì tuổi già, đồng chí được đoàn thể cấp cho vé xe hạng nhất. Khi thấy Bác đi hạng ba, đồng chí cũng quyết đi hạng ba, mặc dù Bác khẩn khoản mời đồng chí cứ đi hạng nhất cho khỏe khoắn. Đồng chí Xan Ca-ta-da-ma là một người thợ nhiều nghề, đấu tranh đã nhiều, lênh đênh không ít, tính rất kiên quyết, đồng thời rất hiền lành.
Đến dự hội nghị, có nhiều đại biểu các nước thuộc địa, và đại biểu mấy đảng cộng sản các nước đế quốc. Ở hội nghị, Bác có gặp người chiến sĩ lão thành yêu nước là cụ Nê-ru thân sinh của Thủ tướng Nê-ru.
Sau hội nghị ít lâu, Bác đi Thụy Sĩ, sang Ý để dần dần đi về Tổ quốc.[1]
Sang Xiêm, về Hương Cảng hợp nhất Đảng
“... Bác đáp tàu Nhật Bản đi sang Xiêm. Ở Xiêm, Bác giúp kiều bào chỉnh đốn thêm những đoàn thể yêu nước, và tổ chức thêm trường học dạy các trẻ em. Kiều bào Xiêm có thể chia làm ba hạng. (A) là những đồng bào nghèo - số đông từ hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị - sang Xiêm buôn bán kiếm ăn. (B) là cháu chắt những đồng bào theo đạo Thiên chúa bị triều đình Minh Mạnh và Tự Đức khủng bố chạy trốn sang Xiêm. Những kiều bào này ở tập trung thành từng xóm từng làng. Họ vẫn nói tiếng Việt Nam ăn mặc như người Việt dù họ đã lấy quốc tịch Xiêm. (C) là những người đã tham gia phong trào Văn thân ngày trước và phong trào cách mạng ngày nay, bị thực dân Pháp khủng bố mà chạy sang đây. Khi đông người thì ở tập trung từng xóm, ít người thì ở xen lẫn với kiều bào cũ.
Nói chung, kiều bào đều đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, nhớ thương Tổ quốc, và căm thù thực dân. Có những cán bộ rất tận tụy và được kiều bào rất tin cậy.
Bà con Xiêm đối với kiều bào ta cũng tử tế. Chuyện sau đây chứng tỏ cảm tình tốt của người Xiêm đối với kiều bào : Cụ Tú Hướng (em cụ Đặng Nguyên Cẩn) là một người cách mạng già rất gương mẫu. Một hôm thực dân Pháp phái chủ mật thám sang yêu cầu chính phủ Xiêm bắt giam cụ Tú cho chúng. Viên quan địa phương cho mời cụ Tú đến trụ sở và hơn mười cụ già Xiêm da đen, người thấp, râu bạc giống hệt cụ Tú, rồi bảo tên mật thám Pháp : “Đấy, ông xem ai là cụ Tú Hướng thì ông bắt đi. Nhưng nếu ông bắt nhầm người công dân Xiêm, thì ông sẽ phải chịu phạm luật quốc tế!”. Tên mật thám nhìn kỹ, thấy ông già nào cũng giống nhau, nó không nhận ra ai là cụ Tú. Kết quả là nó phải cụp đuôi chuồn không dám bắt ai.
Ở Xiêm khoảng một năm, Bác được tin hội “Thanh niên cách mạng đồng chí” chia rẽ thành ba phái và tổ chức ba đảng cộng sản khác nhau. Nóng ruột, Bác lại bí mật trở lại Trung Quốc, và mời đại biểu ba phái đến Hương Cảng họp hội nghị. Đến dự hội nghị có Bác và các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Lê Tản Anh, Nguyễn Đức Cảnh…
Để giữ bí mật, hôm thì mấy anh em giả đánh “ma chược” ở khách sạn, hôm thì đến sân vận động xem đá bóng. Sau mấy buổi bàn cãi sôi nổi, đến ngày 3 tháng hai 1930, (vào dịp Tết âm lịch) ba phái đều đồng ý thống nhất thành Đảng cộng sản Việt Nam. Mọi người đều vô cùng vui mừng, phấn khởi. Để chúc mừng Đảng ra đời, Bác đãi một bữa Tết nguyên đán vừa tiết kiệm, vừa linh đình.
Bác nói : Từ năm 1918, Bác gửi cho hội nghị Véc-xay (hội nghị hòa bình giữa các nước dự cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, họp ở Pháp) tám khoản yêu cầu của nhân dân Việt Nam, đến năm 1920 - vào Đảng Cộng sản Pháp, đến năm 1924 – dự Đại hội lần thứ năm của Quốc tế cộng sản và năm 1930 – dự cuộc thành lập Đảng công sản Việt Nam, đó là những ngày sung sướng nhất trong đời Bác.
Từ đó giai cấp công nhân Việt Nam có đảng tiên phong của mình và ngay từ đầu Đảng đã nắm quyền lãnh đại cách mạng. Tin mừng về việc thành lập một Đảng cộng sản thống nhất làm cho cán bộ đảng viên và nhân dân ta vô cùng phấn khởi, và từ đó cuộc vận động cách mạng ào ạt tiến lên từ Bắc đến Nam. [2]
“Đồng bào ta ở Xiêm, lúc bấy giờ có gần hai vạn kể cả mới và cũ, trong đó có những người sang từ đời Gia Long, hoặc từ đời Minh Mạng, Tự Đức. Đa số là người lương nhưng cũng có một số đạo Gia tô. Nhưng lương hay giáo, kiều bào ta ở Xiêm đều sẵn lòng yêu nước. Phần lớn tán thành hoặc ủng hộ phong trào Cần vương hay phong trào Duy tân, Đông du.
Sau khi các phong trào nói trên thất bại, một số người hoạt động của phong trào cũng thường sang tạm lánh ở Xiêm như các ông Ngô Quảng, Thần Sơn, cả cụ Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính và một số người khác nữa. Những nhà hoạt động chính trị này đều đeo đuổi một chủ trương là “chiêu binh mãi mã” để về đánh Pháp. Họ không có một đường lối chính trị, một quan điểm trường kỳ trong công cuộc cách mạng giải phóng Tổ quốc. Họ coi đất Xiêm chỉ là nơi tạm bợ, coi nhà kiều bào chỉ là nơi trú chân, nên không ai tuyên truyền tổ chức kiều bào cả. Chỉ từ khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội do đồng chí Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo thì mới có chủ trương truyên truyền, tổ chức kiều bào để làm cơ sở nối liền phong trào cách mạng trong và ngoài nước.
Ngay từ năm 1925, một số đồng chí của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đã được phái về Xiêm tổ chức Hội Thân ái với mục đích là tập họp kiều bào, làm cho họ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, dựa trên cơ sở đó mà giáo dục lòng yêu nước. Một số thanh niên từ bên nước mới sang thì được tổ chức lại thành Hội hợp tác là của chung. Trừ chỉ tiêu sinh hoạt mức tối thiểu hàng ngày của hội viên, còn bao nhiêu thì dùng vào công tác cách mạng. Hội này là nòng cốt của phong trào và là cơ sở phát triển hội viên của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội.
Từ năm 1926 trở đi, Hội Thân ái lần lượt được tổ chức ở những nơi có đông kiều bào như U-đôn, Sa-côn, Na-khon, Pha-nom. Ở những nơi đó, Hội hợp tác cũng được thành lập. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội cũng đã tổ chức được ba chi bộ, do Tổng hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Hồng Kông lãnh đạo.
Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, tuy Tưởng Giới Thạch đã phản động, nhưng Tổng hội ở Hồng Kông vẫn liên lạc được thường xuyên với các chi bộ ở Xiêm.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc ở đâu ? Người ta không được biết.
Mùa thu năm 1928, ở Bản-đông, thuộc Phi-chít (Trung bộ nước Xiêm) có ông Chín xuất hiện.
Những người chưa từng quen biết ông, đoán với nhau, thì thào. Có người nói : Có lẽ ông ở bên nước mới sang chăng. Nhưng rồi họ tự hỏi : nhưng sao ông lại nói tình hình thế giới được rành mạch như thế ? Có người nói : Hay là ông ở Tàu về ? Nhưng rồi họ cũng tự nhủ : Không lẽ ! Vì ông biết tình hình trong nước rất tường tận kia mà !
Ở đây luôn luôn có người trong ra, ngoài vào. Ai đến cũng đều có báo cáo tình hình với Hội hợp tác, nhưng không ai biết được nhiều chuyện mà nói rất rõ ràng và dễ hiểu như ông Chín cả. Mà lạ nhất là tại sao ông cũng hiểu rõ cả tình hình kiều bào ở Xiêm.
Ở Phi-chít kiều bào có ít, tổ chức tương đối tốt nhưng lại gần tai mắt của mật thám, nên ông Chín chỉ ở lại có mươi ngày rồi đi U-đôn. Từ Phi-chít đến U-đôn, phải đi bộ theo đường rừng mất khoảng mươi ngày. Mỗi người đi đường phải gánh theo hai thùng có nắp đậy để đựng những quần áo, đồ dùng lặt vặt và mang một con dao, một ống cheo ( thịt gà hoặc sườn lợn băm nhỏ rang muối mặn) và mười ki-lô gạo. Lúc ấy là mùa thu. Cây rừng trọi lá. Trên thì trời nắng, dưới chân thì đất cát lẫn sỏi.
Thấy ông Chín xưa nay chưa quen gánh mà cũng chưa quen đi bộ, anh em không để cho ông gánh. Nhưng ông không chịu. Đôi thúng đưa đi đưa lại, chân nam đá chân chiêu. Thế mà ông Chín vẫn cố gắng. Mấy ngày sau, trong lúc ngồi nghỉ, anh em thấy hai bàn chân của ông Chín đã đỏ chín, rớm máu. Hỏi ông, mới biết là ngay từ ngày đầu, chân ông đã phồng và đỏ như vậy, nhưng không ai biết, vì ông cứ thản nhiên làm như không có việc gì xảy ra. Ông cười và nói : “Thiên hạ vô nan sự, nhân tâm tự bất kiên ! Cứ để thế, đi một vài hôm nó sẽ thành “dạn”, đừng ngại…”. Quả nhiên, từ ngày thứ tư trở đi, ông Chín đã theo kịp mọi người. Mấy tháng sau gặp lại ông, tôi hỏi : “Bây giờ thì ông đi bộ giỏi lắm ?” Ông Chín nói : “Hừ ! Bây giời thì mình “long hành hổ bộ” rồi”. Thật vậy, người ta kể lại rằng, từ U-đon đến Xa-vang, dài 71 cây số, thế mà ông chỉ đi trong một ngày !
U-đôn, thuộc Đông-bắc nước Xiêm, có thể gọi là trung tâm của cuộc vận động Việt kiều ở Xiêm. Ngoài U-đôn, thì ở Noọng-khai, Sa-côn, Na-khon, Thạt-Pha-nôm, Mục-đa-han, đều có kiều bào đông. Ông Chín quyết định đi U-đôn trước. Hồi ấy, chi bộ ở U-đôn là chi bộ thứ hai của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Ở đó, cũng đã có tổ chức Hội thân ái và Hội hợp tác.
Với chủ trương của Tổng hội là đoàn kết kiều bào trường kỳ cách mạng, anh em thanh niên ở trong nước mới ra đã thực hành việc đó có kết quả khá. Nhưng dù sao, tư tưởng ấy vẫn chưa được thấm nhuần nên việc tổ chức kiều bào còn mắc bệnh hẹp hòi: Ở đất nước người ta lâu mà tiếng Xiêm, chữ Xiêm không học, vì anh em cho rằng không bao lâu nữa, không đi nước ngoài thì cũng về nước để tuyên truyền vận động, chứ chẳng ăn đời ở kiếp gì đây. Mặt khác, trước tình hình có nhiều khó khăn, phong trào trong nước bị khủng bố dữ dội, anh em thấy tiền đồ cách mạng còn đen tối. Trong cuộc hội nghị đầu tiên khi tới U-đôn, ông Chín báo cáo trước chi bộ, nói rõ tình hình và triển vọng cách mạng thế giới, tính trường kỳ gian khổ của cách mạnh Việt Nam và đề ra chủ trương : mở rộng tổ chức, củng cố cơ sở cần thiết, tuyên truyền giáo dục kiều bào tôn trọng phong tục tập quán và giữ pháp luật của người Xiêm, làm cho quần chúng Xiêm có cảm tình với cách mạng Việt Nam.
Ông Chín chủ trương đổi báo Đồng thanh (một tờ báo của Hội thân ái xuất bản từ năm 1927) ra báo Thân ái; nội dung tờ báo phải rõ ràng, chương phải ngắn gọn và dễ hiểu; báo phát hành càng rộng càng tốt. Hội hợp tác trước kia chỉ nhận anh em thanh niên trong nước mới ra, nay chủ trương nhận cả kiều bào nào thật thà yêu nước tình nguyện gia nhập. Ông lại chủ trương xin phép Chính phủ Xiêm lập trường học cho trẻ em Việt kiều, khuyến khích mọi người học tiếng Xiêm, mở rộng việc vận động học chữ quốc ngữ. Ông Chín quyết định ở lại đây một thời gian. Lúc này, không ai bảo ai, người ta quen gọi ông là “Thầu Chín” (Thầu, tiếng Lào, để gọi người nhiều tuổi và biểu thị sự tôn kính).
Việc đầu tiên là Thầu Chín đặt chương trình hàng ngày của mình: Buổi sáng lao động mấy giờ, học tiếng Xiêm mấy chục chữ, dịch mấy trang sách; buổi tối, huấn luyện chính trị hoặc nói chuyện với mọi người… Thầu Chín đã làm đúng chương trình ấy. Khi mới đến, Thầu Chín cùng mọi người đào giếng và đào gốc cây. (Lúc này Hội hợp tác đang vỡ đất hoang làm vườn). Gần một tháng, sau khi được phép của Chính phủ Xiêm, kiều bào xây dựng nhà trường. Thầu Chín cũng tham gia gánh gạch. Vì chưa quen gánh nặng lên buổi đầu, ông đặt chương trình gánh mỗi bên mười viên, sau tăng dần lên 15 viên và mỗi sáng gánh hai chục gánh. Cứ mỗi lần gánh đến chỗ xếp gạch, ông lại lấy phấn đánh dấu, theo thứ tự nét chữ “chính”. Đủ năm gánh thành một chữ, ông lại bắt đầu viết chữ thứ hai, cốt để khỏi nhớ nhầm. Khi đến bốn chữ “chính” là ông nghỉ ; ông không bao giờ gánh hơn mà cũng không gánh kém. Xong, ông đi tắm, rồi làm việc khác theo chương trình. Nhà trường của Việt kiều ở U-đon là nhà trường được Chính phủ Xiêm cho phép xây dựng đầu tiên, do chính phủ bổ nhiệm thầy dạy. Sau đó các nhà trường của Việt kiều ở Sa-côn, Na-khon được lần lượt xây dựng tương đối hơn. Buổi sáng, trẻ em Việt kiều học chữ Xiêm theo chương trình của nhà nước Xiêm, buổi chiều học chữ quốc ngữ. Thầy dạy chữ quốc ngữ là Việt kiều và do Hội hợp tác nuôi. Ban đêm kiều bào đến đọc báo, vui chơi ở câu lạc bộ, thỉnh thoảng nghe nói chuyện tình hình trong nước và thế giới. Các trường này dạy được từ năm, bảy năm và đã có ảnh hưởng lớn trong kiều bào. Con cái người Xiêm ở gần cũng đến học ngày càng đông.
Thầu Chín cổ động mọi người trong cơ quan hợp tác cũng học chữ Xiêm ; số người cùng học, được mười người. Khi đặt chương trình, Thầu Chín đề ra trong thời gian đầu, mỗi ngày học mười chữ, về sau tăng dần lên. Mọi người chê ít, đòi học nhiều hơn. Thầu Chín chủ trương học mười chữ thôi. Mọi người cho rằng nhất định mình học được. Chưa đầy ba tháng, Thầu Chín đã xem được báo chữ Xiêm, còn những người khác thì chỉ hăng hái vồ vập lúc đầu, về sau dần dần, “bữa đực bữa cái”. Kết quả chữ lại theo thầy !
Thầu Chín đã xem sách và dịch sách như thế nào ? Trước khi đọc hay dịch một cuốn sách (hồi ấy Thầu Chín dịch cuốn Nhân loại tiến hóa sử và cuốn Cộng sản A, B, C), ông đếm số chương và số trang, rồi đặt chương trình mỗi ngày dịch hay đọc mấy tờ. Ông không bao giờ chịu sai chương trình. Nếu gặp việc đột xuất, như có kiều bào đến nói chuyện chẳng hạn, thì trong ngày ấy, Thầu Chín cũng kiếm giờ khác bù vào, không chịu để vỡ kế hoạch.
Từ khi có Thầu Chín đến, nhà cửa anh em hợp tác, trừ những ngày có sinh hoạt nội bộ không kể, còn thì đêm nào cũng chật ních những người. Họ rất thích nghe Thầu Chín nói chuyện, vì Thầu Chín nói chuyện rất hấp dẫn, rất thiết thực, từ câu chuyện làm ăn đến câu chuyện cứu nước, từ những câu nói bình thường đưa đến chuyện chính trị. Người ta thấy ở ông có cái gì đáng tôn kính nhưng đồng thời dễ thân mật. Người ta thường đem chuyện gia đình, chuyện làm ăn ra bàn bạc, hỏi ý kiến Thầu Chín. Ông khuyên kiều bào phải siêng năng, chăm chỉ, thật thà, yêu Tổ quốc, giữ pháp luật và tôn trọng phong tục tập quán của người Xiêm. Thầu Chín thường nhắc đến mối cảm tình của hai dân tộc Xiêm-Việt. Ông nói: Việt Nam là thuộc địa, Xiêm là nửa thuộc địa, Việt Nam bị Pháp áp bức, Xiêm cũng bị Pháp bắt ký nhiều điều ước bất bình đẳng. Mình ghét Pháp, người Xiêm cũng chẳng ưa gì Pháp. Xiêm và Việt Nam lại là láng giềng. Nhất định người Xiêm có cảm tình với phong trào chống Pháp của Việt Nam.
Sinh hoạt của anh em hợp tác lúc ấy rất gian khổ. Không phải vì họ kiếm không ra tiền. Tuy số đông anh em khi ở trong nước là tiểu tư sản, trí thức, chưa lao động quen nhưng trong thời gian ở Xiêm, anh em đã lao động hóa, làm được rất nhiều nghề. Thợ cưa, thợ mộc, thợ nề v.v… thứ gì cũng làm được cả. Hơn nữa ở Xiêm nghề thủ công chưa phát đạt, nên anh em cũng dễ kiếm việc mà làm cũng ra tiền. Nhưng anh em đều thấy phải cần kiệm vì còn nào phải nuôi con em của kiều bào và thiếu niên trong nước mới ra, cho học tập (trong số thiếu niên này, có nhiều người hiện nay là những cán bộ cốt cán), nào phải lo gây dựng cơ sở như làm nhà trường chẳng hạn, và còn phải dự trữ để phòng khi có đồng chí trong ra, ngoài vào, v.v… Cho nên có khi hàng tháng anh em chỉ ăn rau sam hay rau lang chấm muối, hoặc chỉ ăn muối không. Mua một vài ki-lô pa-đéc (cà muối) cũng phải đợi khai hội biểu quyết. Thầu Chín cũng sống với anh em như vậy. Nhiều kiều bào gần đó thấy Thầu Chín hay hút thuốc là nên mỗi khi đi chợ về họ không quên mua một vài gói thuốc con “chim xanh” hay con “voi vàng” gửi cho Thầu Chín. Sau đó một thời gian không lâu, một số kiều bào cũng xin vào Hội hợp tác, và mấy người Xiêm vợ của kiều bào ở gần cũng biết đọc báo “Thân ái”, đã tham gia các cuộc khai hội của Hội thân ái, vì họ thấy Hội này săn sóc cả công việc gia đình, làm ăn của họ nữa.Thầu Chín cũng thường cùng với một số thanh thiếu niên gánh khoai đi các bản đổi lấy lúa.
Ở U-đôn ít lâu, Thầu Chín ra Sa-côn. Ở đây, kiều bào đông hơn và cũng đã có trường học cho trẻ con, có Hội hợp tác của thanh niên. Nhưng ở đây, kiều bào còn chậm tiến và mê tín. Phần lớn kiều bào theo đạo Thiên chúa ở làng Thà-bẹ. Những người ở các làng xung quanh thị xã Sa-côn tin đạo Phật. Những người ở thị trấn thì phần lớn thờ “Đức thánh Trần”…
Thầu Chín đến Sa-côn cũng sinh hoạt và công tác như ở U-đon. Ngoài việc dịch sách và huấn luyện cho anh em thanh niên, Thầu Chín thường bày cho kiều bào tổ chức diễn kịch, thường là kịch lịch sử Việt Nam mất nước. Ông cũng đóng một vài vai được người xem rất thích, nhiều khi Thầu Chín ứng khẩu đặt câu hát ngay tại chỗ.
Ở đây, Thầu Chín chú ý việc giáo dục cho cán bộ về công tác quần chúng hơn ở Phi-chít và U-đôn. Ông còn chủ trương cho hợp tác lập tủ thuốc, chọn người biết thuốc trong anh em hợp tác làm thầy lang để xem bệnh cho kiều bào. Thấy kiều bào hay lễ Đức thánh Trần, Thầu Chín viết ra “bài ca Trần Hưng Đạo” :
… “Diên hồng thề trước thánh minh
Lòng dân đã quyết hy sinh rành rành
Nếu ai muốn đến giành đất Việt
Đưa dân ta ra giết sạch trơn
Một người Việt hãy đương còn,
Thì non sông Việt vẫn non sông nhà”…
Bài ca Trần Hưng Đạo được truyền bá một cách mau chóng và thần diệu. Chỉ sau một thời gian không lâu, Đức thánh Trần đã trở lại là người anh hùng cứu quốc. Những “đệ tử” của ngài cũng dần dần giác ngộ, làm hội viên của Hội thân ái. Có ông Nho San vốn làm nghề lên đồng, cũng bỏ nghề cũ, đi làm thợ gạch và sau cũng xin vào hợp tác.
Trong thời gian Thầu Chín ở Sa-côn, cán bộ được giáo dục rất nhiều về công tác quần chúng. Xin lấy những lời của đồng chí Tài Ngôn thuật sau đây làm ví dụ. Đồng chí Tài kể :
“Mùa nắng năm 1928, Bác Chín vào Sa-côn, chỗ tôi hoạt động. Cùng đi với Bác, có đồng chí Tý, tức Đặng Canh Tân.
Được ít ngày, Bác Chín bảo tôi và một thanh niên tên là Tô ( tức Long) đi xuống Mục-da-han, một huyện thuộc tỉnh Na-khon, đối diện với tỉnh Sa-van-na-khét của nước Lào. Bác giao cho tôi cùng anh Tô xuống đó điều tra rồi tuyên truyền tổ chức quần chúng vào hội Thân ái. Tôi đi một tháng rồi về.
Tối hôm ấy, Bác gọi tôi lên báo cáo tình hình ra sao.
Tôi nói : “Tình hình có gì đâu mà báo cáo. Tôi đến nhà kiều bào ở bến đò Mục-da-han. Chỗ ấy có độ ba mươi gia đình, có một cái đền thờ ông Trần Hưng Đạo nữa. Kiều bào sinh sống bằng đủ mọi nghề: đưa đò ngang, làm hàng xáo, làm thịt lợn bán. Một số làm thợ mộc, một số làm thợ nề. Cũng có một số thanh niên chừng vài mươi người, một số thiếu nữ độ năm bảy người. Phần đông nghèo khổ, chỉ có hai nhà sống hơi được đầy đủ một chút”.
Tôi ngừng một lúc, rồi lắc đầu chán nản nói tiếp: “ Nói đến cách mạng ở đó thì khó khăn lắm. Ngoài chợ, phụ nữ đã nổi tiếng là chửi nhau giỏi, ngày nào cũng tranh giành mua bán, đánh nhau. Đàn ông đi làm về, chiều chiều người nào cũng uống rượu say túy lúy. Bỏ bát đũa xuống, là mò đi tập hợp nhau đánh bài, đánh ít-xì, sát phạt nhau canh đỏ canh đen. Rượu chán, bạc chán, còn lên đồng ở đền Trần Hưng Đạo nữa. Thanh niên cũng thế, cũng cầu cúng, cũng đánh bạc, rồi lại trai gái.
Một chỗ như thế, làm sao mà tuyên truyền vận động cách mạng được !”
Tôi vừa dứt lời, Bác Chín nói ngay :
- À thế được rồi. Thôi về nghỉ đi, mai hãy hay.
- Tình hình như thế thì được cái gì ? – Tôi hỏi lại Bác.
Bác Chín cười :
- Được lắm chứ, được cái anh nói đó.
Trước khi ra về, tôi xin Bác Chín:
- Mai, tôi muốn được một công tác gì khác.
- Ừ, mai sẽ bàn.
Tôi ra về, hy vọng một sự thay đổi công tác. Nhưng ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa, tôi cũng chẳng thấy Bác Chín nói gì.
Hai ngày sau tôi hỏi :
- Thế bây giờ, tôi làm công tác gì ?
- Ừ, được rồi. – Bác Chín nói , - có phải anh bảo cái chỗ ấy nó tồi lắm phải không ? Nó đánh bạc, nó uống rượu, nó tranh giành nhau mua bán, nó chửi nhau phải không ? Cũng chưa xấu lắm ! Nó có thể xấu hơn nữa, có thể có mật thám nữa kia.
Bác Chín nhìn tôi, rồi chậm rãi tiếp luôn :
- Anh học sách mà quên mất sách.
Tôi hỏi :
- Quên chỗ nào ?
- Quên chỗ này này. Sách cách mạng bảo đi vận động quần chúng, tuyên truyền giáo dục quần chúng chứ gì ! Nhưng nếu quần chúng tốt cả rồi, biết thương yêu đoàn kết với nhau rồi, biết học tập tiến bộ rồi, biết yêu nước rồi, thì ta còn vận động, tuyên truyền, giáo dục cái gì nữa, thì ta còn phải làm gì nữa ? Có đến thì đến một lúc thôi chứ !
Nếu quần chúng đều khá như tôi với anh cả, thì cần gì phải đến !
Im lặng một chút, rồi Bác lại nói tiếp :
- Còn một cái quên nữa : quên người ta là đồng bào Việt Nam, đồng bào Việt Nam nghèo khổ, mà lại mất nước nữa, phải không anh ?
Tôi không có chỗ cãi, ngồi im, gật đầu :
- Vâng
- Thế thì anh lại đến chỗ cũ mà làm việc. Bận trước, chưa có kế hoạch cụ thể. Bây giờ phải làm cho được. Anh chọn một cái nhà xấu nhất, hư nhất, mà đến ở. Hãy làm cái nhà đó đã. Nếu nhà ấy thích anh, thế là được rồi.
Vài phút trước khi tôi ra đi, Bác Chín đưa cho tôi một cái gói con, quấn giấy tử tế, lại buộc dây cẩn thận nữa. Bác bảo : “Tôi trao cho anh một cái cẩm nang”. Rồi Bác lại dặn thêm : “Mà đừng có xem dọc đường đấy”.
Phải là một tài liệu bí mật, quý giá gì đây, tôi nghĩ trong bụng thế. Tôi ra đi, cất giấy má cẩn thận. Đến nơi, tôi giở ra xem. Chán quá ! Té ra là một quyển ca “Trần Hưng Đạo”.
Tôi đến Mục-đa-han. Theo lời Bác Chín bảo, tôi lân la kiếm ra một gia đình hư nhất. Tôi đến chơi, rồi xin thuê một căn nhà ở chung, mỗi tháng trả một đồng.
Nhà này, người chồng cứ sáng sáng làm chung thịt heo đi bán ở chợ. Chiều về, rượu xong, lại mò đi đánh kiệu, trăm ngày như một, chẳng chiều nào có mặt ở nhà. Thua thất hết tiền, nhà túng bấn, phải chị vợ cũng chua ngoa quá, hễ thấy mặt chồng là chửi bới. Càng chửi thì anh chàng càng khó chịu càng trốn tránh đi già, ai chửi người ấy nghe. Không có ngày nào vợ chồng nhà ấy không hục hặc với nhau.
Nhà có ông bố chồng nghiện rượu. Nói là ông cụ ở nhà trông nhà và mấy cháu nhỏ, nhưng nhà cửa thì bẩn thỉu, mấy đứa nhỏ, bị muỗi rệp đốt, ngứa ngáy, khóc mếu luôn mồm. Con khóc, mẹ chửi, và… chửi luôn cả bố chồng. Nhiều lần tôi tìm lời khuyên giải, nhưng không hiệu quả. Một bữa, tôi mua hai xu rượu về biếu ông cụ. Uống say, cụ ngủ. Tôi đưa mấy đứa nhỏ ra tắm. Tắm mát, đỡ ngứa ngáy, chúng nó cũng ngủ. Tôi dọn dẹp nhà cửa lại cho gọn, lấy tất cả quần áo ra giặt.
Người vợ về, thấy nhà cửa sạch sẽ, bố ngủ, con ngủ, ngon lành, lấy làm vui lòng :
- Chà hôm nay, nhà cửa sạch sẽ thế này ?
- Ấy, cụ dọn dẹp tắm rửa cho các cháu xong, rồi ông cháu đưa nhau đi ngủ đấy.
- Nhờ anh Khóa nói sao mà hôm nay bố tôi tốt thế này ?
Chị bắt đầu quý bố chồng. Hôm sau, chị mua hai xu rượu về mời bố. Ông bố gặp tôi, thắc mắc tại sao con dâu bỗng dưng lại có thái độ thay đổi như vậy. Tôi bảo : “Ấy, hôm qua, tôi dọn dẹp nhà cửa, tắm rửa cho các cháu. Thấy chị ấy vui lòng, tôi bảo cụ làm đấy. Bận này tôi làm, về sau cụ giúp tôi cùng làm nhé”.
Rồi cứ thế, lúc đầu cụ giúp tôi làm. Về sau cụ làm, tôi giúp. Cụ trở lên chăm chỉ. Cửa nhà gọn ghẽ, trẻ con ăn chơi vui vẻ. Bố chồng, con dâu không điều tiếng gì nữa.
Còn anh chồng hay cờ bạc. Tôi khuyên anh học quốc ngữ. Anh đồng ý. Tôi mang sách dạy anh học vào những giờ thường ngày anh hay đi đánh kiệu.
Anh học tối dạ lắm, nhưng miễn là không đi đánh kiệu, ngồi nhà học là quý rồi.
Chị vợ thấy anh chồng không đi chơi bời nữa, ở nhà học hành, bắt đầu thương chồng lại quý chồng. Vợ chồng hòa thuận, êm ấm hơn xưa.
Rồi cả đến người vợ, thấy chồng học, cũng đòi tôi dạy cho chị ta học.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận