Cả xóm ngạc nhiên về sự thay đổi lớn lao trong cái gia đình trước kia nổi tiếng lục đục nhất trong xóm. Từ đó họ quý tôi, tìm đến đi lại chơi bời với tôi, nhất là anh em thanh niên. Tôi thường ra đền Trần Hưng Đạo xem anh em đọc kinh, cầu cúng. Một hôm tôi bảo : “Ở đây, anh em còn đọc kinh cũ. Ở Sa-côn họ có một quyển kinh mới, hay lắm. Tôi có mang về một quyển đấy”.
Tôi mang “kinh” ra đền cùng anh em đọc. Dần dần tôi thân với tất cả mọi người trong xóm, lấy báo “Thân ái” về đọc cho mọi người nghe.
Gần hai tháng sau, bác Chín và anh Thuyên về Mục-đa-lan. Bác tìm tôi, hỏi :
- Bây giờ nó thế nào, liệu chừng rồi ra sao ?
- Khá hơn trước rồi. – Tôi trả lời Bác.
- Thế à ! Có lúc nào ra đền đọc kinh không ?
Tôi cười :
- Ngày nào cũng đọc.
- Thế bây giờ có gửi báo đến được không ? Thanh niên có ai dám nhận báo không ?
- Được ạ. Họ yêu cầu.
Nói xong, tôi đưa hai địa điểm. Bác Chín cười, vui vẻ :
- Được rồi, thế thì hơn mình đấy, mình mới có một thôi.
*
* *
Ở Sa-côn ít lâu, Thầu Chín lại cùng một vài anh em, với ít số báo “Thân ái” trong mình đi khắp nơi có Việt kiều ở rải rác trên dọc hữu ngạn sông Cửu Long, từ Mục-đa-han đến Noọng-khai. Khoảng tháng 6 năm 1929, Thầu Chín dời xứ Đông-bắc Xiêm vào Băng-cốc, ông đi thăm một số người cách mạng cũ ở rải rác nhiều nơi.
Thầu Chín đi chuyến này, đến khoảng tháng 3 năm 1930, mới trở lại đất Xiêm. Nhưng lần này, ông không gặp kiều bào. Ông chỉ ra Đông-bắc ở ít ngày, báo tin cho một số anh em biết, các nhóm cộng sản ở Việt Nam đã thống nhất thành Đảng cộng sản Đông Dương ngày 3 tháng 2 ở Hương Cảng, và cho biết Chính cương vắn tắt của Đảng. Có người hỏi : “Chủ trương của Đảng ta đối với Việt Nam quốc dân đảng thế nào ?”. Ông nói : “Sau khi thành lập Đảng, thì Đảng phái người liên lạc với họ để lập Mặt trận phản đế, khuyên họ đừng manh động, nhưng chưa liên lạc kịp, thì tháng hai họ đã bạo động thất bại.
Thế rồi Thầu Chín lại đi…”[3]
*
* *
“… Người Xiêm mộ đạo Phật và rất hiền lành. Đến tuổi nào đó, con trai phải đi tu ở chùa mấy tháng. Vì vậy trong nước có hàng ngàn nhà sư. Sư rất được nhân dân kính trọng. Và được nhân dân nuôi. Mỗi ngày họ chỉ ăn một bữa, vào 11 giờ sáng. Chị em phụ nữ mang cơm đến chùa, Sư cứ việc ăn không cảm ơn ai. Họ chỉ cảm ơn Phật tổ. Khi sư ăn xong, cơm rau còn lại khách quan đường có thể ăn, cũng không phải cảm ơn ai. Những người đưa cơm đến rất sung sướng được bố thí. Họ tin rằng bố thí càng nhiều thì càng được nhiều phúc đức.
Nhờ thế mà ông Nguyễn ( tức là người cán bộ thường giảng sách báo) và những người bạn của ông có thể đi đường không tốn tiền cơm.
Nếu không gặp những người khách đói, người đưa cơm đem một phần cơm thừa cho chim ăn. Vì họ sợ mang hết về thì xúi quẩy.
Ngoài việc cuốc đất, đi buôn, ông Nguyễn còn làm công việc tuyên truyền và tổ chức. “Hội ái hữu Việt Nam” thành lập. Một tờ tuần báo “Bác ái” được xuất bản. Trước kia ở Trung Quốc ông Nguyễn từ phương Bắc tuyên truyền về nước. Bây giờ ở Xiêm, ông tuyên truyền về nước từ phương Tây.
Những hoạt động của ông, dù hết sức cẩn thận, vẫn không thể hoàn toàn giữ bí mật. Ở đâu có Việt kiều, là tổ chức trường học cho trẻ em. Ở đâu có trường học, là nơi đó cha mẹ tụ họp để nghe đọc báo và bàn bạc công việc. Nạn cờ bạc, thói cãi nhau bớt hẳn. Người lớn giúp đỡ nhau trong công việc. Trẻ em không ngỗ nghịch nữa. Nạn mù chữ dần dần thanh toán hết. Nói tóm lại có một sự thay đổi trong kiều bào Việt Nam ở Xiêm.
Trước tiên, người Pháp nghi ngờ, và về sau chúng đoán là ông Nguyễn ở đâu trong vùng này, nhưng không biết đích xác ở đâu. Chúng cho mật thám đi tìm. Nhưng trong bọn mật thám, có một người khá. Người này tin cho ông Nguyễn biết, ông bày cho anh ta cách khai báo để làm cho bọn Pháp tin.
Gặp khi nguy hiểm quá, bị theo dõi riết, ông Nguyễn đã lánh vào ngôi chùa, tạm cắt tóc đi tu để tiếp tục hoạt động.
Ở đây có một chuyện đáng kể lại : trên bờ sông Cửu Long về phía Xiêm có một số khá đông Việt kiều. Người Pháp rất chú ý đến họ. Chúng đặt rất nhiều mật thám để kiểm soát họ. Khi dò được những người Việt Nam yêu nước, chúng báo cảnh sát Xiêm đi với chúng để bắt những người cách mạng.
Người Xiêm rất tốt với người Việt Nam nhưng không muốn có sự phiền phức ngoại giao cho nên họ miễn cưỡng đối với Pháp. Song những vụ bắt bớ này ít có kết quả, nhờ sự giúp đỡ của nhân dân Xiêm. Một hôm một người cán bộ bị mật thám đuổi, chạy vào một nhà Việt kiều. Nhà đi vắng chỉ còn một em bé 9 tuổi. Đồng chí ấy vừa vào, thì bọn mật thám cũng ập tới. Em bé liền lấy một cái nón cũ đội lên đầu và đưa một dây thừng buộc trâu cho người cán bộ. Và rất thản nhiên, em bé trách : “Đã trưa rồi mà chú không đi tìm trâu, mẹ mắng chết”.
Người cách mạng đội nón, cầm dây thừng, khoác áo tơi, yên lặng ra khỏi nhà qua trước mặt bọn mật thám đang sục sạo.
Sau việc này, người ta hỏi em bé :
- Em có biết người cán bộ ấy không ?
- Không, em không biết, nhưng người ấy giống một chú thỉnh thoảng đến nhà em và dạy em hát.
- Tại sao em lại bảo chú ấy đi tìm trâu ?
- Em cũng không biết tại sao. Nhưng em sợ nếu chú ấy ở trong bếp, sẽ bị mật thám bắt mất.
Một điều cần nhắc lại là kiều bào ta ở Xiêm luôn luôn đoàn kết với nhân dân Xiêm và tôn trọng pháp luật của nước Xiêm, cho nên được người Xiêm yêu mến.” [4]
*
* *
“Mùa thu 1928 tôi được gặp Bác.
Tôi nhớ lại hôm đó tôi đang làm cỏ ngoài đồng cùng với ông Võ Tòng thì bà Quỳnh Anh (em ông Đặng Thúc Hứa) gọi chồng – tức là ông Võ Tòng riêng ra. Bà cho biết là vừa rồi đi chợ có gặp một người thanh niên dong dỏng cao ăn mặc âu phục, trắng trẻo hỏi thăm ông Lữ Thế Hanh. Lữ Thế Hanh là bí danh của ông Võ Tòng hồi đó. Thời kỳ này đang mùa lụt lội, anh em chèo thuyền đi đón, nhưng người ngày muốn gặp riêng Lữ Thế Hanh. Ông Võ Tòng vội vã đi gặp gỡ người thanh niên. Hôm đó vì được mời nên chúng tôi đều bỏ buổi làm về nhà cách nơi làm ruộng chừng 6, 7 cây số để họp. Cần nói rõ thêm là, đã đi làm là thường chúng tôi ở lại đó cho đến khi xong việc mới về (chẳng hạn xong việc cày cấy, xong việc làm cỏ, hoặc xong đợt gặt). Tối hôm đó ông Lữ Thế Hanh triệu tập anh em đông đủ đến dự họp “ Hội giảng diễn”. Mọi người đều có mặt.Người thanh niên mà vợ chồng bà Quỳnh Anh gặp, đến nói chuyện. Thật là lạ tai khi tôi được nghe những tiếng “đồng chí” và tiếng đó được luôn nhắc đến. Thú thực lần này là lần đầu tôi mới được nghe thấy những tiếng như thế.
Người thanh niên giới thiệu là ông Thọ, biệt hiệu là Nam Sơn. Ông Thọ hỏi thăm sức khỏe, tình hình gia đình, việc làm ăn của từng người.
- Giống cậu Khiêm[5] quá các anh ạ - Có tiếng xì xào.
- Hay là “cậu” Nguyễn Ái Quốc ? Một người khác thắc mắc hỏi.
Anh em bán tín bán nghe nhưng không một ai dám hỏi. Có người biết rõ ông Thọ là ai – vì người cháu của Bác lúc này cũng có mặt tại buổi họp - nhưng anh không hề nói ra.
Từ hôm đó, cứ sau buổi đi làm về, tối đến anh em lại đến họp để nghe nói chuyện. Trong hai tuần ở đây, tối nào ông Thọ cũng nói chuyện. Ông nói về tình hình thế giới, tình hình nước nhà. Ngoài ra ông sử dụng các bài báo rút trong các báo Anh, Pháp, Trung Quốc mà đem ra đọc và phân tích, giảng giải. Giọng ông Thọ ấm cúng, thoạt mới nói nhỏ nhẹ, thấp nhưng cuối cùng do hăng say bị lôi cuốn đi giọng cao mãi lên, dồn dập và hùng hồn. Vì ở đây hầu hết các gia đình đều là gia đình cách mạng đi lánh nạn nên chúng tôi quây quần đùm bọc bên nhau, sống tập thể ăn chung, làm chung, tiền tiêu cũng là tiền tiêu chung, thừa tiền chúng tôi còn phải gửi về nước giúp cách mạng, vì vậy gặp được người như ông Thọ chỉ dẫn, chúng tôi rất phấn khởi, chăm chú nghe lời ông Thọ chỉ bảo.
Đợt đến "thăm"này kéo dài hai tuần, nhưng ông Thọ đều đã đi khắp lượt các nhà, hỏi han và giúp đỡ. Ông được coi ngay như người ở đây vì ông rất giản dị, thân tình. Ông đã biết hòa mình vào với anh em và muốn như vậy, ông đã trút bỏ ngay bộ cánh âu phục như thói quen của chúng tôi ở đây, đi chân đất. Có điều thói quen đi giày do bao năm bôn ba nước ngoài, bỏ giày ra đi đất không phải là điều không trở ngại, chân da non giẫm lên sỏi đá tất nhiên là rất nhức nhối. Ông đã tập bỏ được cái thói quen cũ, đi giày, và làm quen với cái tập quán mới : đi đất.
Ông Thọ đã tham gia vào tất cả các cuộc làm lụng của anh em, gánh nước, gặt hái, đi lấy củi. Không như nhiều người, đã không làm được việc gì…
Năm 1928 cho đến hết năm 1929, ông Thọ, tức là Bác kéo ông Võ Tòng và ông Đặng Canh Tân (con ông Đặng Thái Thân) đi khắp nước Xiêm. Cứ hết một tháng lại quay về rồi mới lại đi. Thời kỳ này là thời kỳ chuẩn bị cho việc thống nhất Đảng. Cuối năm 1928, vì tôi được điều ra U-đôn lại được gặp Bác ở đây. Ăn tết ta ở U-đôn xong, tôi lại được điều đi huyện Sa-côn, lần này nữa lại được gặp Bác. Sang năm 1929, tôi ở với Bác vừa đúng gần một năm tròn. Tôi phụ trách hiệu thuốc bắc. Bác cũng ở với tôi ở hiệu thuốc liền từ tháng giêng đến tháng 6-1929. Sở dĩ tôi nhớ tháng này là vì hàng năm có kỷ niệm Phạm Hồng Thái (19 tháng 6), ngày ném bom ở Sa Điện. Lúc đầu tôi ở phố, sau hiệu thuốc của tôi dọn về cùng với anh em trong làng. Ở đây có mở các trường lớp để dạy dỗ các con em do đồng bào ta tổ chức ra. Tôi nhớ rõ là trong số giáo viên đầu tiên ở trường có anh Khoan, anh Nguyên là giáo viên trường tiểu học của Pháp.
Người ta hơn người đâu phải là vì có đầu óc siêu phàm, chẳng qua người đó biết hướng mình đi đúng vào một con đường mà mình đã vạch, chỉ cần mình có sự kiên trì, nỗ lực.
Tôi đã biết sự nỗ lực của Bác trong việc gánh nước, gặt hái, bỏ giày đi chân, tập đi ngựa, tập đi xe đạp. Hồi này ở cạnh bên Bác tôi càng hiểu rõ Bác hơn nữa. Trong lao động, việc tập luyện có anh em chỉ làm được việc này mà không làm được việc khác, nhưng Bác thì không thế. Ai đã làm được việc gì, Bác đều làm được cả. Thấy việc gì mình cần làm mà chưa làm được, Bác rèn mình làm cho bằng được mới yên. Không chỉ bắt mình tập luyện, Bác còn rèn cho mọi người chung quanh biết luyện cho mình cái thói quen ấy. Vì vậy được ở chung với Bác tôi đã cố noi theo cái tác phong tốt đẹp của Bác. Cho đến ngày nay, tuy tôi mới chỉ học tập được một phần tác phong của Bác để lại, nhưng như vậy cũng đã giúp cho tôi biết bao để tôi hoạt động sau này. Giờ đây mỗi khi làm được một việc gì kết quả tôi liền sực nghĩ đến những cử chỉ của Bác. Xưa kia, những cử chỉ ấy đã gieo rắc vào trong đầu óc tôi một ấn tượng sâu sắc đến nỗi nhiều lúc như thấy Bác đâu đây bên cạnh mình, tưởng như chuyện hôm qua, hôm kia, không phải là chuyện đã cách đây 40 năm rồi. Thật vậy, Bác như có một sức gì quyến rũ, đã gặp Bác rồi, dù một lần hay đã quen lâu, khó mà ai có thể muốn rời Bác nữa. Sức ấy chẳng có gì khác ngoài cái lòng thương người, yêu nhân dân, vì nhân dân và luôn luôn mong muốn mọi người vươn lên. Những đức tính cao cả ấy chỉ có thể có ở một lãnh tụ như Bác, “mình vì mọi người…” nhưng chưa hề mảy may trông đợi “mọi người vì mình…”. Ý thức ấy và cũng là những đức tính cao cả ấy của Bác trọn vẹn trước sau như một, ngay từ lúc tôi được gặp Bác ở Thái Lan là lúc Bác còn thanh niên và cho đến cuối đời, tôi thấy Bác vẫn giữ nguyên vẹn như vậy.
Tôi còn nhớ một hôm có một thanh niên bị bệnh thổ huyết, được anh em kiều bào khiêng đến nhà tôi. Tôi đã dùng hết cách mà không sao cầm được máu. Bác đứng nhìn người bệnh băn khoăn, trên nét mặt lộ hẳn ra vẻ lo ngại.
- Còn phương pháp gì chữa được nữa không ? Bác gặng hỏi – Thử cố gắng một lần nữa xem.
Sự băn khoăn của Bác đã làm cho chúng tôi không khỏi không lúng túng. Bỗng tôi chợt nhớ đến chiếc sừng tê giác. Tôi chạy đi tìm và mang về mài ra cho bệnh nhân uống. Bác theo dõi và nét mặt dần dần lộ vẻ tươi lên, khi thấy máu trong miệng người thanh niên không ộc ra nữa và cầm lại. Bác đứng lặng yên nhìn và được một lát Bác và tôi khiêng người thanh niên vào trong nhà…
Sáng hôm sau, Bác dậy sớm, thấy quần áo người bệnh đầy máu, Bác liền cởi ra và thay cho anh rồi cùng tôi mang ra giặt.
Những cử chỉ trên chỉ có ở một người cha hiền từ biết thương con mới có thể có được.
Nhưng đã gọi là nguyên tắc thì Bác thực hiện và thi hành đến mức nếu ai không hiểu, có thể cho là máy móc nữa. Có lần tôi trả tiền nhà cho một chủ đất, tôi trả thế nào lại trội ra năm xu. Khi xem lại, Bác tỏ ra không bằng lòng và liền đó Bác bắt tôi đi đòi cho bằng được. Đối với bọn bóc lột, Bác cương quyết không khoan nhượng, dù là đồng tiền nhỏ nhất. Hơn nữa đấy lại là tiền của tập thể…
Nếu trước kia và sau này nữa, nếu chúng tôi có một lòng một dạ nhất nhất tuân theo ý kiến Bác chỉ bảo, không phải là vì “sợ” Bác là người “bề trên”, mà là vì qua tiếp xúc với Bác, chúng tôi đã tin rằng bên cạnh mình có một người anh, một người thân tình nhất đang dẫn dắt mình vào một con đường đúng đắn, đẹp đẽ nhất mà không hề mảy may sợ mình lầm lạc…
Trong chương trình hoạt động hàng ngày, Bác vạch ra như sau :
- 4 giờ 30 đến 5 giờ , tập thể dục trong đó có môn thái cực quyền. Giờ này ít anh em chịu dậy học, nhưng riêng tôi đã cố theo cho bằng được. Có phần cố gắng bản thân, nhưng sự động viên của Bác đã thúc đẩy tôi rất nhiều.
- 5 giờ đến 6 giờ : Tất cả mọi người đều phải dậy. Ai không dậy, Bác vào tận nơi đánh thức, giờ này là giờ nói chuyện về tình hình thế giới, trong nước, về thời sự và nghe giảng chủ nghĩa Mác-Lê. Về học tập chủ nghĩa Mác-Lê,còn thêm buổi tối từ 7 đến 8 giờ nữa.
Mới đầu Thầu Chín – tên anh em đặt một cách kính trọng cho Bác hồi ở Thái Lan, chỉ nói cho những người trong cơ quan nghe, nhưng vì cách nói của Thầu Chín hấp dẫn, anh em thanh niên ở ngoài đòi được dự, Bác cũng đồng ý.
Vì là giờ học tập, nghe nói chuyện và có thảo luận nên trong khi thảo luận chúng tôi thường nêu ra nhiều vấn đề và mỗi vấn đề Bác đều giải đáp và phân tích cặn kẽ. Từ chủ nghĩa Tam dân mà Bác cho là tiến bộ ở điểm nào và hạn chế ở đâu…
Có lần trong số anh em có anh bật ra một câu hỏi vẫn ấp ủ từ lâu :
- Cậu Nguyễn Ái Quốc là ai thế, cậu ấy bây giờ ở đâu ?
- Một thanh niên yêu nước !
Câu trả lời gọn lỏn ấy làm cho chúng tôi có sự tự hào, vì trong người thanh niên yêu nước ấy có cả chúng tôi nhưng chúng tôi vẫn không khỏi thắc mắc.
- Ông Bùi Quang Chiêu thế nào ? – nhân bàn đến các nhân vật đương thời, một hôm có một người hỏi như vậy.
- Phong kiến ! – Lại một câu trả lời gọn.
- Còn cụ Phan Bội Châu ?
- Một người viết ra sách cuốn sau đập cuốn trước.
Phải nói rằng thường trong trò chuyện hàng ngày, Bác rất trọng cụ Phan, vì cụ là người giàu lòng yêu nước chân chính và nồng nàn, nhưng thực tình Bác chỉ trọng ở “cái lòng”, còn đường lối của cụ vạch ra thì Bác thường nói ra là Bác không thể chấp nhận được. Chính vì vậy mà Bác phải lần mò trong bao nhiêu năm để tìm ra con đường riêng của mình.
Vì từ 6 giờ trở đi, ai có việc gì thì làm việc ấy, theo công việc nghề nghiệp của mình, nên mọi người đều có việc riêng của người ấy. Có hôm vì hết việc ngồi nhà rỗi, thấy vậy, Bác liền huy động tất cả đi trồng cây. Sau này tôi mới biết rõ, khi Bác sang một cơ quan ở một nơi khác, Bác cũng huy động như vậy. Có lẽ ý thức trồng cây của Bác đã có từ lâu. Việc trồng cây này cũng chẳng có gì đáng đặc biệt, nhưng tôi kể ra đây là vì có một sự việc đã làm cho tôi nhớ mãi : việc trồng cây râm bụt.
- Cây râm bụt là cây của đất nước! – Bác nói.
Thật là một ý thức rèn cho con người nhớ đất nước, yêu Tổ quốc sâu xa. Từ chỗ xa xôi hẻo lánh, đồng lạ nước người này, Bác không ngừng rèn cho mọi người lòng kiên trì. Râm bụt phải lấy từ Na-Khon, cơ quan của ta cách đấy 80 cây số - mà còn luôn luôn nhắc nhở cho mọi người không được lúc nào quên cái gốc của mình.
Đối với mọi người Bác đã quan tâm rèn luyện một cách có ý thức như vậy, thì riêng với bản thân mình, Bác lại càng khắt khe hơn nữa. Vì Bác vốn hay mệt mỏi, ho cũng do một phần nữa vì sự làm việc quá sức mình. Nhưng để tránh vì sức khỏe mà ảnh hưởng đến các hoạt động, Bác đã tập luyện. Giờ giấc đúng hàng ngày của mình nhất nhất phải theo, là một cách tập luyện thể dục, thái cực quyền là một cách tập luyện khác, Bác học cả thuốc nữa. Cũng do ở bên cạnh tôi, Bác lại ở ngay trong hiệu thuốc. Học bằng cách đọc sách, ghi chép. Ghi chép là chuyện thường của chúng ta ngày nay, nhưng thời ấy là một chuyện mới mẻ. Đọc không hiểu, Bác hỏi, mà hỏi cặn kẽ, không giấu dốt. Hiểu đến đâu ghi đến đấy và chia loại. Cách học thuốc của Bác khoa học như vậy nên đã giúp cho tôi nhiều trong việc nghiên cứu về đông y sau này và giúp Bác hiểu rõ những điều cơ bản về thuốc và chữa bệnh. Chính Bác phát hiện ra cây hy-thiêm – cũng ở trong sách thuốc - là loại cây thường thấy mọc ở vùng này, giúp Bác tránh bệnh phong thấp, sự hay mệt mỏi của Bác do bệnh này gây ra. Có lần tôi đi vắng có cán bộ bị ốm, Bác cũng bốc được và người này đã khỏi bệnh.
Luyện cho mình, luyện cho mọi người vượt cả bệnh tật, ốm đau, vượt cả mọi trở ngại để tiến lên là một điều nói thì dễ, nhưng thực hiện được không phải là điều dễ dàng đối với tất cả mọi người. vì vậy Bác uốn nắn con người từ những tật xấu nhỏ nhất hàng ngày mà con người mắc phải. Có một thời kỳ Bác cùng anh em đi bắt cá. Có một đồng chí vì lười nhưng lại thiếu ngay thẳng, bắt thì ít nhưng lại vờ vĩnh thì nhiều, cho nên hôm nào về cũng tuyên bố với anh em là bắt được nhiều cá. Bác không nói gì cả, hôm sau cùng đi với đồng chí ấy, Bác cứ lẳng lặng, bắt được con cá nào là bứt đuôi con cá đó. Tối đó về, tưởng vẫn có thể lừa bịp được mọi người, anh ta lớn tiếng khoe tài.
- Thế cá của anh có đánh dấu gì không ? – Bác hỏi.
- Không !
Bác đổ rổ cá và cười :
- Cá của tôi đều là bứt đuôi, thử xem nào !
Đổ rổ cá ra, mọi người đều cười.
Bác không cần ồn ào phê bình khi người ta có khuyết điểm và khi đã định giáo dục ai thì giáo dục bằng việc làm, bằng hành động cụ thể. Cách làm đó có sức thuyết phục ghê gớm. Chính cái lối uốn nắn rèn luyện người như vậy đã đem lại nhiều hiệu quả tốt đẹp. Ngay việc rèn luyện cho mọi người nuôi cái chí khí căm thù giặc, có lòng yêu nước nồng nàn Bác cũng dùng cái cách ấy. Chẳng hạn đến ngày kỷ niệm Phạm Hồng Thái hy sinh, Bác đã biết chọn một ông phó lãnh binh và một ông đội trưởng kể chuyện lại những trận đánh của các ông đã tham gia chống Pháp.
Hai ông kể xong nhân đấy Bác mới nói tiếp để tả những nỗi thống khổ của người dân mất nước, cảnh người dân Việt Nam bị đàn áp, cái nhục của một kẻ bị trị… Trong khi Bác nói tôi đã thoáng nghe thấy tiếng khóc thút thít.
Bác nói chừng một tiếng đồng hồ, mọi người ra về như thấy máu mình được hâm sôi lên. Ngày hôm sau mới là ngày kỷ niệm chính. Bác cho diễn một vở kịch ngắn về đời hoạt động của Hoàng Hoa Thám, liền đó lại cho diễn hai vở kịch đả kích, đề tài viết về hai tên bán nước Lê Hoan và Hoàng Cao Khải. Chính Bác là người viết kịch bản lại là người đạo diễn. Không phải Bác chỉ chú trọng về đề tài yêu nước và việc đả kích những tên bán nước, mà Bác còn chú trọng cả việc giáo dục lối sống mới. Trong thời kỳ này có tối Bác diễn cả một vở kịch chống mê tín. Bác vẫn là tác giả, người đạo diễn và có tham gia làm diễn viên nữa. Bác đóng vai ông Thành hoàng và một số cán bộ khác đóng vai Thổ công. Tôi đóng vai thầy thuốc. Bác chọn tôi đóng thầy thuốc cũng như chọn những anh em biết qua nghề gì đến khi đóng vai người đó diễn cho hợp với vai mình đóng. Nội dung vở kịch tả hai con bệnh cùng đồng bệnh nhưng người dùng thuốc thì khỏi và kẻ nghe theo đồng cốt uống những thứ nhảm nhí thì chết. Kịch có tác dụng tốt, vừa vui vừa có ý thức giáo dục…
Như vậy là trong khung cảnh hoạt động chung ở đây, Bác không từ bỏ một việc gì mà không tham gia vào. Từ việc gánh nước, gặt hái, xẻ gỗ làm nhà cho tới việc huấn luyện giảng dạy. Ngay cả việc đi buôn để gây quỹ Bác cũng tham gia đóng góp vào. Bác chọn trong số thanh niên có đầu óc mà cử đi. Bác đi theo cũng khăn gói tay nải đi theo. Việc Bác đi theo đây không phải là giám sát, cái chính là để giúp đỡ và giác ngộ người thanh niên ấy trở nên những cán bộ sau này. Trong số người được Bác chọn đi buôn tôi nhớ có cả Đặng Canh Tân là người được Bác rất tin yêu. Ông được Bác đặc biết giúp đỡ.
Gần cuối năm 1929, tôi thấy Bác chuẩn bị ba-lô quần áo : âu phục, Trung Quốc và một áo thường sau đó Bác đi vắng một thời gian dài.
Khoảng tháng 3-1930, thì Bác trở lại. Hôm đó tôi đang đi cày thì Bác cho gọi về. Bữa cơm hôm đó khác mọi ngày, tươm tất hơn, có thịt gà. Cũng cần xin nói rõ hơn ở đây là từ đầu năm 1929, Đoàn thanh niên vẫn được bố trí luôn ở cạnh Bác nên cần có sự gì chỉ bảo là Bác cho gọi đến, nên lần này được gọi đến cũng là chuyện thường. Khi về tôi đã thấy có mặt các đồng chí Ngô Tuân, Hoàng Văn Hoan, Lạc, Ba, v.v…
Ngày 3 tháng 2 năm 1930 là ngày ba nhóm Đảng đã thống nhất lại, hợp thành một Đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Cơm nước xong, Bác tuyên bố trước anh em như vậy.
Việc thống nhất ba nhóm Đảng chắc đã được Bác chuẩn bị từ lâu và sau này tôi mới biết rõ là thời kỳ Bác đi vắng lâu đúng là Bác đi gặp các đồng chí ta và đi sang Hương Cảng để lãnh đạo việc hợp nhất ba nhóm Đảng lại. Có lẽ việc sắm ba bộ quần áo cũng là có sự liên quan đến việc chuẩn bị ấy…
Sau cuộc họp lịch sử nói trên, Bác liền chia tay với các anh em ở Thái Lan và đi Trung Quốc [6].
*
* *
“… Bác về Trung Quốc được mấy tháng, thì một trang sử vẻ vang vô cùng quan trọng mở ra cho phong trào cách mạng Việt Nam. Thay mặt Quốc tế cộng sản, ngày mồng 3 tháng 2 năm 1930 Bác đã thống nhất ba nhóm cộng sản Trung, Nam, Bắc thành chính đảng duy nhất của giai cấp công nhân là Đảng cộng sản Đông Dương. Bác vừa trực tiếp lãnh đạo Đảng vừa tham gia cơ quan lãnh đạo Đông Phương bộ của Quốc tế cộng sản. Bác thường qua lại Thượng Hải nên tôi lại có dịp gặp Bác ở đây.
Cuối năm 1929, tôi tới Thượng Hải. Trong tô giới Pháp ở Thượng Hải, có chừng 4.000 lính khố xanh, khố đỏ, và một số công dân người Việt Nam làm cho nhà máy Ốc-xi-gien (phần đông là công nhân Trung Hoa). Tàu chiến của các nước Anh, Mỹ, Nhật, Pháp đậu đầy ở bến Thượng Hải. Thượng Hải là một thành phố đồ sộ, người tứ xứ đông như kiến. Tôi lọt vào đấy như con chim chích vào rừng. Một bác công nhân quen cũ ở Hương Cảng giới thiệu tôi với y sĩ Thuyết ở Trần Tam phạm điếm một hàng ăn của người Việt Nam mở cho lính Pháp. Tôi làm hầu bàn ở đấy. Vận động anh em công nhân nhà máy Ốc-xi-gien lập hội tương tế. Từ các tổ chức của anh em công nhân tôi phát triển sang anh em bồi bếp, bà con buôn bán rồi bắt mối với trại lính khố đỏ, rồi đến lính khố xanh, rồi tới lính thủy. Từ tổ chức quần chúng, tôi tiến lên xây dựng cơ sở Đảng. Phong trào lên mạnh, Đảng cử đồng chí Phiếm Chu lên Thượng Hải cùng tôi gánh vác mọi tuyên truyền tổ chức.
Một hôm, tôi nhận được một bức thư, lời lẽ như người yêu gửi cho : “Em chờ cậu ở chỗ đánh bi-a của Tiên-thi công ty”. Xem xong, tôi đoán ngay là thư của một đồng chí nào đây. Đúng rồi, tôi đến Tiên-thi công ty, một cửa hàng bách hóa vào hạng lớn nhất của Thượng Hải. Tới chỗ hẹn, không thấy ai, tôi quay ra, tần ngần hết sức. Lúc ấy vào một buổi chiều đầu năm 1930, Thượng Hải lạnh và có tuyết. Tôi đang đi thì có người đi sau gọi : Hai ! Hai !(Hai là tên tôi hồi hoạt động ở Thượng Hải).
Tôi quay lại, nhận ra người gọi, mừng không kể xiết. Đấy là đồng chí Vương.
Mừng thì mừng thật, nhưng lòng lại áy náy. Mình thì com-pơ-lê, pu-lơ-vơ, phu-la, ba-đờ-xuy hai lần len, mà đồng chí Vương thì áo đại cán dạ thường, ba-đờ-xuy mỏng, đầu đội một cái mũ vơ-lua, nhưng tàng hơn mũ phở tàng. Bốn năm trước, ở Quảng Châu, đồng chí Vương cũng gầy, giờ lại gầy hơn. Gặp tôi đồng chí vẫn vồn vã như xưa.
Đồng chí Vương rủ tôi đi quanh co mấy phố. Đồng chí hỏi tôi về tình hình công tác anh em công nhân, binh lính, hỏi chỗ tôi ở thế nào, đã có gì lộ chưa… rồi đồng chí Vương nói :
- Tôi ở đây chỉ vài ngày rồi lại phải đi ngay. Hôm nay chỉ cốt gặp nhau thôi, hẹn hôm sau nói chuyện lâu. Đồng chí công tác cố gắng đấy, nhưng phải cẩn thận. Nó đang khủng bố riết.
Sáng hôm sau, tôi đến gặp đồng chí Vương ở một khách sạn. Đồng chí thuê một căn buồng vào hạng rẻ tiền. Buồng hẹp chỉ đủ kê một giường con và một bàn nhỏ. Ở Trần Tam phạm điếm, tôi còn có lò sưởi. Nhưng ở đây lạnh tanh lạnh giá. Tôi nhìn lên bàn thấy nhiều sách lắm, phần lớn là sách tiếng Anh, tiếng Trung Quốc, và nhiều máy chữ, cũng là máy chữ Anh. Lần này, đồng chí Vương tiếp tôi cả buổi sáng lại giữ tôi ở lại khách sạn ăn cơm, gọi là cơm khách sạn, nhưng nào có gì đâu. Cơm là cơm gạo xấu, thức ăn có món canh, món xào và món cá mặn. Tôi được dịp trình bày hết công việc của tôi. Đồng chì Vương nói :
- Hoạt động trong binh lính phải rất cẩn thận. Anh em hăng nhưng trong tay sẵn có vũ khí thì dễ mạnh động.
Đối với tôi, những ngày ở Thượng Hải là những ngày đi vào quần chúng, trực tiếp vận động quần chúng. Kinh nghiệm còn ít, nên chủ quan nhiều. Về nhà ngẫm nghĩ cứ phân vân mãi về những lời khuyên của đồng chí Vương. Ít ngày sau, chúng tôi được tin cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ và thất bại. Ngồi phân tích với nhau về tính chất anh em binh lính trong cuộc bạo động ấy chúng tôi mới thật thấm thía với những lời bảo ban của đồng chí Vương.
Tôi còn gặp đồng chí Vương vài lần khác nữa. Một lần, đồng chí hẹn đến thư viện, đường Nam Kinh. Cuối thư có một câu gạch đít : “đến thư viện phải ăn mặc tươm tất, đi vào phải cho êm”. Tôi tự hỏi vào thư viện thì có gì mà đồng chí Vương phải dặn dò cẩn thận thế. Khi đến thư viện thấy mọi người chăm chú đọc sách, bốn bề im lặng như tờ, bấy giờ tôi mới hiểu. Tôi rón rén đi vào. Đồng chí Vương trả sách, khẽ bảo tôi cùng đi ra. Đồng chí Vương nói :
- Phong trào bây giờ lên khá cao, công việc của đồng chí thì nhiều, một mình làm không xuể. Phương tiện cũng ít ỏi. Muốn đẩy mạnh công tác, phải có sự giúp đỡ của Đảng anh em. Người cộng sản bất kỳ hoạt động ở nước nào cũng phải chịu sự lãnh đạo của Đảng ở đấy.
Sau đó ít ngày, tôi được gặp đồng chí Thái Xưởng, và đồng chí này giới thiệu với tôi đồng chí phụ trách việc vận động binh lính ngoại quốc của Đảng cộng sản Trung Quốc giúp chúng tôi thật là tận tâm tận lực. Công việc của chúng tôi là với những số báo “Kèn gọi lính”. Còn việc ấn loát, việc phân báo vào các trại lính Việt Nam, thì các đồng chí Trung Quốc đảm nhiệm hết.
Các đồng chí còn cung cấp cho chúng tôi đủ các thứ đũa, giấy nến, bút thép v.v… Đây là lần đầu tiên chúng tôi phối hợp công tác với các đồng chí anh em. Ngay trong những bước đầu ấy, chúng tôi đã thấy được cụ thể thế nào là tinh thần quốc tế cộng sản mà mình mới nhận thức trên lý thuyết trước đây, tôi nghĩ đối với các đồng chí Trung Quốc, vấn đề chỉ là đặt liên lạc. Đến đây, tôi mới hiểu nguyên tắc công tác của những người cộng sản hoạt động ở nước ngoài.
Vào khoảng tháng bảy, tháng tám năm 1930, đồng chí Vương lại có dịp qua Thượng Hải. Đồng chí đến cơ quan chúng tôi họp và góp thêm ý kiến về việc vận động binh lính Việt Nam ở Thượng Hải. Dự họp lần này có vợ chồng đồng chí Ích, các đồng chí Phiếm Chu, Quốc Long và tôi. Đồng chí Vương mặc quần áo đũi, vẫn kiểu cán bộ. Mùa nực, da dẻ đồng chí có phần hồng hào hơn là trong những ngày mùa đông tháng giá. Tôi nhớ trong buổi họp ấy, đồng chí bảo chúng tôi là phải kết hợp tinh thần quốc tế vô sản với lòng yêu nước chân chính - đồng chí Vương nói :
- Không nên chỉ hô hào thợ thuyền, dân cày chung chung. Không nên nói vô sản một cách cứng nhắc. Trước mắt chúng ta là phải đánh đổ thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Cho nên phải khơi lòng yêu nước của mọi người. Đối với anh em binh lính, ta nên khêu gợi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, rồi chuyển sang khêu gợi lòng yêu nước, thương nòi. Như thế, mới đi vào lòng người ta được.
Đồng chí lại xem những số báo “Kèn gọi lính” nhắc chúng tôi không nên dùng những chữ khó hiểu, viết phải gắn, gọn, rõ ràng. Sau đó đồng chí Vương viết mấy bài, cả văn vần lẫn văn xuôi, nội dung là yêu nước, ghét thống trị Pháp, văn rất ngắn gọn và dễ hiểu.
Trong những ngày gặp gỡ đồng chí Vương, tôi thấy con người đồng chí là một sự hòa hợp tinh thần quốc tế vô sản bao la và lòng yêu nước sâu sắc. Sau buổi họp ấy, chúng tôi chỉnh đốn lại bài vở. Từ đấy, những số báo, những truyền đơn, của chúng tôi có tác dụng rõ rệt trông thấy. Anh em công nhân, bồi bếp, binh lính, bà con buôn bán trông ngóng những số báo của chúng tôi. Những người ít chữ nói đọc những số báo trước không nhớ được ý, nhưng đọc những số báo sau này thì nhớ được rõ và lâu. Y sĩ Thuyết, sang học thuốc ở Thượng-Hải nói trước ngại đọc, vì chỉ thấy nói về cộng sản, bây giờ đã bắt đầu thích đọc, vì thấy các số báo nói nhiều về lòng yêu nước.
Khi tôi chia tay với đồng chí Vương, sau cuộc họp ấy, tôi không ngờ đấy là buổi gặp cuối cùng giữa Bác và tôi ở nước ngoài. Bác thì bôn ba hết nước này đến nước khác, còn tôi thì cũng bắt đầu những năm tháng tù đày.”[7]
----------
[1] T.Lan, “Vừa đi đường vừa kể chuyện”, Nhà XB Sự Thật, năm 1963.
[2] T. Lan, “Vừa đi đường vừa kể chuyện” – Nhà XBST, năm 1963.
[3] Lê Mạnh Trinh, “Những ngày ở Quảng Châu và ở Xiêm”, trong tập “Bác Hồ”, Nhà XBVH, năm 1960.
[4] Trần Dân Tiên, “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, Nhà XB Sự Thật, năm 1975.
[5] Trần Dân Tiên, “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, Nhà XB Sự Thật, năm 1975.
[6] Trích hồi ký của đồng chí Đặng Văn Cáp - Tài liệu B.N.C.L.S.Đ.T.W.
[7] Nguyễn Lương Bằng, “Những lần gặp Bác”, trong tập “Bác Hồ”, Nhà xuất bản Văn học năm 1960.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận