Truyện Hoàng Dung
  • Nam  
    • Linh dị
    • Đồng nhân
    • Trùng sinh
    • Xuyên không
    • Lịch sử
    • Quân Sự Xây Dựng
    • Khoa Huyễn
    • Dị giới
    • Dị năng
    • Huyền ảo
    • Đô thị
    • Kiếm hiệp
    • Tiên Hiệp
    • Hàn Quốc
    • Cổ Đại
    • Hiện Đại
    • Tương Lai
    • Ma Pháp
    • Game / Thể Thao
    • Tu Chân
    • Xuyên Nhanh
    • Hệ Thống
    • Hài Hước
    • Huyền Học/ Âm Dương Sư/ Phong Thuỷ ...
    • Tận Thế
    • Teen
    • Sinh Tồn
    • Võ Hiệp
    • Quan trường
    • Đam Mỹ
    • Fan fiction
    • 12 Chòm Sao
    • Tây Du
    • Sắc
    • Trinh thám
    • Hacker
    • Hắc Ám Lưu
    • Harem
    • Phiêu Lưu
    • Vô Địch Lưu
    • Xuyên Sách
    • Sủng Thú
    • Truyện Xuất Bản Thành Sách
    • Vô Hạn Lưu
    • Tài Liệu Riêng
    • Thăng cấp lưu
    • Não To
    • Truyện dịch Free
    • Thủ Thành
    • Nhật Bản
  • Nữ  
    • Trùng sinh
    • Xuyên không
    • Ngôn tình
    • Huyền ảo
    • Đô thị
    • Tiên Hiệp
    • Cổ Đại
    • Hiện Đại
    • Game / Thể Thao
    • Cung Đấu
    • Tình Cảm
    • Ngọt Sủng
    • Nữ Cường
    • Vườn Trường
    • Xuyên Nhanh
    • Bách Hợp
    • Giới Giải Trí/ Showbiz
    • Hệ Thống
    • Truyện Việt Nam
    • Tản Mạn
    • Tác Phẩm Nước Ngoài
    • Hài Hước
    • Huyền Học/ Âm Dương Sư/ Phong Thuỷ ...
    • Tận Thế
    • Thiếu Nhi
    • Ngược
    • Teen
    • Quân Nhân
    • Đoản Văn
    • Fan fiction
    • Điền Văn
    • 12 Chòm Sao
    • Mỹ Thực
    • Bác Sĩ/ Y Thuật
    • Hào Môn Thế Gia
    • Phiêu Lưu
    • Vô Địch Lưu
    • Làm Giàu
    • Xuyên Sách
    • Sủng Thú
    • Truyện Xuất Bản Thành Sách
    • Niên Đại Văn
    • Vô Hạn Lưu
    • Trạch đấu
    • Tài Liệu Riêng
    • Thăng cấp lưu
    • Não To
    • Truyện dịch Free
    • Thủ Thành
    • Nhật Bản
  • Danh Mục  
    • Tìm kiếm Truyện  
    • Truyện dịch  
    • Truyện sáng tác  
    • Bảng Xếp Hạng  
    • Truyện trả phí  
    • Truyện đề cử  
    • Truyện đã hoàn thành  
    • Truyện convert  
  • Thông báo  
    • Tuyển dụng  
  • Hướng dẫn  
    • Hướng Dẫn Sử Dụng Trang Web  
    • Hướng Dẫn Nạp Tiền  
    • Hướng Dẫn Đăng Truyện  
  • Facebook
  • Đăng nhập | Đăng ký

Đăng ký


A PHP Error was encountered

Severity: Notice

Message: Undefined variable: captcha_image

Filename: inc/menu.php

Line Number: 130

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập ngay

Đăng nhập

Quên mật khẩu

Bạn chưa có tài khoản? Đăng ký ngay

Quên mật khẩu

loading
Chúng tôi đã gửi mật khẩu mới về email của bạn

Bạn chưa có tài khoản? Đăng ký ngay

  1. Trang Chủ
  2. Lịch sử
  3. Đường Bác Hồ Đi Cứu Nước
  4. Chương 19: Từ Vân Nam – Tĩnh Tây về Pắc Bó (1)

Đường Bác Hồ Đi Cứu Nước

  • 523 lượt xem
  • 5374 chữ
  • 2020-12-25 10:39:41

Bấm trên máy tính để sang chương tiếp theo và bấm để quay lại chương trước

Cấu hình

Cấu hình sẽ lưu lại trên thiết bị của bạn.

“… Thời kỳ Trung – Nhật chiến tranh, các đồng chí ta tập trung nhiều về Vân Nam. Tôi lấy tên là Trịnh Đông Hải, làm công nhân lái xe cho hãng dầu cù là Vĩnh An Đường, lấy đồng lương nuôi các đồng chí hoạt động, đồng thời ngầm mượn luôn cửa hiệu của hãng đó làm trạm liên lạc cho cách mạng. Tháng 1-1940 có đồng chí Minh về trong nước mới ra, nói Trung ương bảo đi tìm ông Trần.

Lúc đó tôi đã liên lạc được với chi bộ Đảng ta và chi bộ Đảng cộng sản Trung Quốc ở Vân Nam. Thường gặp hai đồng chí Trung Quốc, một đồng chí không biết là bí thư hay là gì, một đồng chí là đồng chí Trần Phương, lúc đó gọi là đồng chí Phùng, hiện nay phụ trách khu gang thép An Ninh ở Vân Nam. Tôi tìm gặp các đồng chí Trung Quốc, hỏi có biết ông Trần không ? Các đồng chí bảo có. Tôi rất vui mừng. Lại hỏi : hiện nay ông ở đâu, thì các đồng chí nói ở Hoa Bắc. Tôi nói : Trong nước muốn gặp ông ấy, viết thư cho ông ấy về được không ? Các đồng chí bảo là được. Tôi hỏi thêm : không biết ông ấy là Việt Nam hay là Trung Quốc, thì các đồng chí cười, nên tôi không hỏi nữa.

Viết thư đưa đi rồi, nhưng không biết bao giờ ông đó về, tôi nói với đồng chí Minh : Anh về nước thôi, chứ đợi thì biết đến bao giờ ? Đồng chí Minh nói : ông này đã gửi thư về nước, nhắn tìm ông ấy ở Long Châu, nhưng không tìm được, nên nay phải cho giao thông đi tìm.

Gửi thư đi được ít lâu, một hôm vào cuối tháng 2-1940 có một người đứng tuổi mặc âu phục, cổ cồn, cơ-ra-vát vào hiệu Vĩnh An Đường hỏi bằng tiếng Trung Quốc : Có ai là Trịnh Đông Hải ở đây không ? Tôi ra nhận. Lúc đó người ấy mới nói nhỏ bằng tiếng Việt Nam : “Tôi là Trần đây. Anh em ta đi ra công viên nói chuyện”. Lúc ở cửa hàng, tôi chưa kịp chú ý, lúc cùng đi công viên, nhận thấy ông Trần đi rất nhanh và cặp mắt sáng lạ thường. Tôi đoán chừng là một cán bộ quan trọng. Nhưng chưa nghĩ đến rằng ông đó chính là Nguyễn Ái Quốc. Chỉ biết là một người Trung ương cho đi tìm. Đúng hạn tìm hộ, đã về thì tôi tin. Ông Trần hỏi tình hình trong nước thế nào, ở đây có những ai ? Tôi nói rõ hết : ở Vân Nam còn có một cơ sở bí mật, cửa hàng này là cơ sở công khai. Vào cơ sở bí mật, các đồng chí sẽ báo cáo rõ thêm.

Ông Trần hỏi : “Đồng chí có rỗi không, nếu rỗi thì ta đi vào cơ quan bí mật”. Tôi cũng rỗi, nên cùng đi. Trong bộ phận bí mật chỉ có một mình anh Phùng Chí Kiên. Gặp anh Kiên, ông Trần chỉ nói qua loa, nhưng chúng tôi rất mừng, vì anh Kiên đã biết là Bác.

Hoạt động ở Vân Nam lúc ấy, ngoài anh Kiên và tôi, còn có anh Hoàng Văn Hoan, sau còn thêm anh Phạm Văn Đồng và anh Võ Nguyên Giáp. Nhưng anh Giáp và anh Đồng ở một nơi khác, xa khoảng vài cây số. Anh Kiên ở cơ quan bí mật, phụ trách một tờ báo nên không làm việc gì ngoài nữa. Anh Hoan đi học thợ may. Sinh hoạt của các anh Kiên, anh Đồng, anh Giáp do tôi đảm nhiệm. Tôi hỏi Bác ăn như thế nào ? Bác bảo : “Cái đó các đồng chí không phải lo cho tôi”. Bác ở một cơ sở khác, chính tôi cũng không biết ; có việc gì thì Bác đến gặp ở chỗ anh Kiên.

Nắm tình hình rồi, Bác chỉ đạo chúng tôi về công tác tuyên truyền. Ở Vân Nam lúc đó có nhiều tờ báo. Có tờ của ta chỉ lấy tên là “Đ.T” hiểu là “Đảng ta”, “Đấu tranh” hay “Đánh Tây” cũng được. Báo in bằng kính như kiểu in đá. Anh Kiên viết chữ trái. Tôi phụ trách in. Viết lên kính rồi phải phơi cho khô mới lăn mực in được. Phơi dễ bị lộ và hay nổ kính. Tôi nghĩ ra cái lò sấy điện bằng một cái hòm gỗ, trong lót kẽm. Bốn bề gài vào được tám miếng kính. Hai đầu hòm mắc hai ngọn điện 300 nến, bật lên một lúc thì khô, rất tiện lợi. Bác cũng tham gia viết bài. Bác dặn anh em viết phải làm thế nào cho mọi người hiểu được. Tôi là công nhân. Trình độ văn hóa lúc đó còn thấp, Bác thường bảo : “Các đồng chí viết rồi đem Trịnh Đông Hải đọc, Hải đọc mà hiểu thì quần chúng hiểu. Thế là được”. Một hôm Bác đưa cho “Tòa báo” một bài thơ. Bác nói đùa : “Thơ này là thơ của vợ Trịnh Đông Hải gửi ra đây”. Bài thơ đăng lên, các anh em hoạt động đều rất thích, nghe như có vợ nhắc nhủ mình thật. Bài thơ đó tôi còn nhớ :

“Ba bốn năm giời luống nhớ thương,

“Nhớ chàng lưu lạc lại tha hương,
“Tóc thề đã chấm ngang vai thiếp,

“Lụy nhớ e chưa ráo mắt chàng,
“Thù nước, thù nhà, chàng gắng trả,

“Việc nhà, việc cửa, thiếp xin đương,

“Bao giờ đuổi sạch quân thù địch,

“Ta sẽ sum vầy ở cố hương.

Có một lần gặp chúng tôi, Bác hỏi : “Báo này gửi cho những ai ? Ở đâu ? Số nhà nào ?” Bác ghi hết. Rồi tất cả báo in ra lần ấy đều gửi đến Trùng Khánh, và từ Trùng Khánh mới lại gửi về các cơ sở.

Từ khi Bác về, số báo “Đ.T” nào cũng có bài của Bác. Bác viết và tự đánh máy lấy. Bác có cái máy chữ thường đi đâu cũng mang đi. Một lần tôi xem máy, thấy bên trong có gài một cái hóa đơn của cửa hiệu bán máy cho đồng chí Phan Bôi – tức là đồng chí Hoàng Hữu Nam – thì ra tuy Bác đi xa, nhưng ở đâu Bác cũng nắm vững tình hình trong nước và luôn luôn liên lạc với phong trào trong nước. Hồi Mặt trận bình dân, Bác cũng viết nhiều bài đăng trên các báo công khai của ta. Bác ký nhiều tên. Trong nước chỉ biết có bài của một đồng chí quốc tế gửi về chứ không biết đích xác là bài của Nguyễn Ái Quốc. Cái máy chữ của Bác là ở trong nước mua gửi cho Bác hồi đó. Sau này tôi hỏi anh Phan Bôi, anh Phan Bôi cũng nói có mua một cái máy chữ cho một đồng chí quốc tế, nhưng cũng không biết gửi cho ai.

Dọc con đường xe lửa từ Vân Nam về đến Hồ Kiều đều có cơ sở ta. Tháng 4-1940, Bác đề ra ý kiến muốn đi thăm các cơ sở. Anh Phùng Chí Kiên đi theo Bác. Ở Vân Nam ta có tổ chức nhiều hội quần chúng, trong đó có “Việt Nam hưởng ứng Trung Quốc kháng địch hậu viện hội”. Bà Tống Khánh Linh cũng có thư chúc mừng hội này. Các nhà đương cục Trung Quốc hồi đó cũng công nhận hội. Bác bàn lấy giấy chứng nhận của hội này để đi kiểm tra công tác. Đi tới đâu thì tôi đã giới thiệu các đồng chí để bắt liên lạc. Chỉ đi các ga Nghi Lương, Khai Viễn, Mông Tự, Xì Xuyên. Bác đóng các vai rất giỏi, bình dị, tự nhiên, không ai biết là nhân vật quan trọng.

Đến Xì Xuyên, Bác ở nhà đồng chí Hoàng Quang Bình. Đồng bào được tiếp xúc với Bác rất lấy làm kính phục. Bác thường dậy rất sớm, leo núi tập thể dục, rồi xuống sông tắm. Có người đồn là có ông tiên thường xuất hiện buổi sáng, trưa thì không thấy đâu.

Bác đi xem xét tình hình quần chúng xong thì trở về Vân Nam. Về Vân Nam, Bác quyết định tổ chức một cuộc rải truyền đơn vạch mặt đế quốc Pháp câu kết với đế quốc Nhật và vận động ủng hộ Trung Quốc kháng Nhật, vận động đoàn kết. Truyền đơn sẽ rải từ Hồ Khẩu đến Vân Nam trong một ngày giờ thống nhất. Giữa tháng 5-1940, truyền đơn in xong, tôi xin nghỉ ở cửa hiệu, đem đi giao cho các đồng chí ở các ga lớn, các đồng chí ở đó lại phụ trách chuyển đến các ga nhỏ. Tôi về chậm hơn kỳ hạn mất một ngày. Ở nhà, Bác rất lo, nhưng lúc gặp, Bác mừng và hỏi đùa : “Chú về chậm vì ghé lại Mông Tự phải không ?”. Thì ra, qua Mông Tự, các đồng chí ở cơ sở có báo cáo với Bác là các đồng chí định hỏi vợ cho tôi, nhưng tôi “bướng” không chịu lấy, nên Bác mới nói đùa như vậy.

Bấy giờ anh Đồng, anh Giáp ở trong nước đã ra. Tôi bố trí để hai anh gặp Bác. Anh Hoan, anh Kiên đến rủ hai anh đi chơi Tạ Quang Lâu. Tôi cùng Bác đi thuê thuyền rồi vào ngồi chờ sẵn. Khi anh Đồng, anh Giáp đến, vào thuyền đã thấy Bác ở đó rồi. Mừng không nói hết. Bác nói đùa : “Anh Đồng vẫn chưa già mấy nhỉ !”. Rồi Bác quay lại nói với anh Giáp : “Chú thì vẫn đẹp như cô con gái ấy”.

Tháng 6-1940, Bác giới thiệu anh Đồng, anh Giáp đi Thiểm Tây, bảo đến Quế Dương thì có trạm xe của Bát lộ quân. Và hai anh đi. Vài tuần sau thì Pháp mất Pa-ri. Bác triệu tập hội nghị bàn việc chuẩn bị về nước. Chủ trương Bác về nước là một việc rất lớn, có tính chất quyết định cho phong trào và cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám sau này. Các đồng chí có hỏi về việc xin vũ khí. Bác cười nói : “Cứ về nước được khắc có vũ khí”.

Bấy giờ có Trương Bội Công làm quan trong quân đội Tưởng đã lâu, đứng ra triệu tập một số người Việt Nam để hoạt động. Có ông Hồ Ngọc Lãm cùng làm quan với Tưởng để dựa vào thế lực Tưởng nuôi cách mạng. Ông nuôi mọi người có chí hướng đánh Tây, bất kể là cộng sản, Quốc dân đảng hay gì gì khác. Trương Bội Công mời ông Lãm về bàn việc. Ông Lãm viết thư cho chúng tôi nói đã có cơ hội hoạt động, mời chúng tôi cùng về. Báo cáo với Bác, Bác đồng ý là để nắm lấy cơ hội về nước. Thế là anh em kéo đi.

Đợt đi thứ nhất có anh Kiên, anh Hoan, anh Cao Hồng Lĩnh và tôi. Lại đánh điện cho anh Đồng, anh Giáp đừng đi Thiểm Tây nữa. Mọi người về cả Quế Lâm rồi đi Liễu Châu. Ở Liễu Châu tôi có quen một nhà, nhờ làm chỗ nhận thư hộ. Bác ở lại Vân Nam và có gì thì viết thư về đó.

Gặp Trương Bội Công, ta biết rõ y là gián điệp của Tưởng. Chúng tôi báo cáo để Bác biết. Bác bảo : “Thôi nên cắt, nhưng nên đưa ông Hồ Ngọc Lãm đi với mình”. Rồi Bác cũng đến Quế Lâm. Tháng 10-1940, các đồng chí cũng lại kéo cả về Quế Lâm.

Đến Quế Lâm, Bác ở một cơ sở nông thôn. Tôi làm liên lạc. Một bữa tôi đến gặp Bác, Bác giở cho xem một bản đồ Trung Quốc kháng Nhật, có những mũi tên ghi thế trận của ta và địch. Bác chỉ cho tôi chỗ đóng của Bát lộ quân và Tân tứ quân. Bác giảng giải cho tôi biết vì sao Đảng cộng sản liên hiệp với Tưởng Giới Thạch đánh Nhật. Bác bảo đó là một cơ hội giáo dục quần chúng nhân dân rất lớn. Nếu không kết hợp với Tưởng Giới Thạch thì Tưởng chẳng mấy lúc sẽ đầu hàng Nhật. Kết hợp với nó, ngoài thì ngăn được nó sớm đầu hàng, trong thì phân hóa được hàng ngũ nó. Những phần tử yêu nước trong hàng ngũ nó sẽ thấy rõ bộ mặt nó mà bỏ nó sang hàng ngũ ta. Một số tối phản động chủ trương đầu hàng sẽ xuất đầu lộ diện như Uông Tinh Vệ. Tưởng Giới Thạch thì một mặt đi với ta, một mặt lùng cán bộ ta, khủng bố ta, nhưng quần chúng nhân dân Trung Quốc đông đảo sẽ giác ngộ, lớn mạnh và kiên quyết chống đế quốc xâm lược. Bác triệu tập một hội nghị bàn việc về nước. Trước đó, ông Hồ Ngọc Lãm và anh Hoàng Văn Hoan có lập ra “Việt Nam độc lập đồng minh hội” ở Nam Kinh để hoạt động. Hội nghị bàn nên phục hồi Hội đó, mời ông Lãm làm chủ nhiệm và cử đồng chí Lâm Bá Kiệt (anh Đồng) là phó. Lập xong được Biện sự xứ thì bọn Trương Bội Công không ở Liễu Châu nữa mà đã về Tĩnh Tây. Về đấy, Trương Bội Công đón được một số thanh niên trong nước ra, trong đó có các anh Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm, Bằng Giang, Cổ Vân… Đó là những anh em thanh niên của ta, hoạt động trong nước, bị Pháp, Nhật khủng bố phải chạy. Tôi được tin ấy, gặp Bác xin ý kiến, Bác bảo anh Giáp, anh Cao Hồng Lĩnh và tôi đi tìm họ.

Cuối tháng 11-1940, chúng tôi về đến Tĩnh Tây bắt mối với các anh em thanh niên trong nước ra định tìm đường đánh thông về nước và tìm địa điểm cho Bác về. Sau khi gặp nhau rồi báo tin lên Bác. Bác liền từ Quế Lâm đi ô tô về Nam Ninh và từ Nam Ninh đi thuyền về Điền Đông. Trong thuyền đông người, chỉ có anh Đồng, anh Kiên, anh Hoan và cụ Cáp là biết Bác. Bác đóng vai trò một “Tân văn ký giả” Trung Quốc. Bác nói tiếng Pháp, anh Đồng dịch lại, ai cũng chỉ tưởng Bác là một nhà báo. Thuyền đi ngược nước, phải kéo. Bác cũng xuống kéo. Lúc ngồi thuyền ai có hỏi gì, có người dịch lại Bác mới trả lời. Có chị tên Hiền khát nước, toan uống nước sông, Bác nói tiếng Pháp, anh Đồng dịch lại bảo nên mua mía ăn, đừng uống nước lã đau bụng. Nhưng có một lần một đồng chí để rơi tàn thuốc cháy áo. Bác ngồi bên cạnh, buột miệng nhắc khẽ : “Kìa cháy ! cháy !”. Khi về, nhắc lại chuyện ai cũng cười không nhịn được.

Về đến Điền Đông, thì anh Đồng, chị Hiền cùng dăm ba người về Tĩnh Tây trước, tìm tôi bảo tôi về Điền Đông gặp Bác ngay. Trong đám thanh niên mới sang, có anh Hoàng Sâm. Tôi cùng anh Sâm đi ngược về Điền Đông. Nửa đường, anh Sâm ở lại bố trí chỗ ở. Tôi về Điền Đông khoảng hai giờ chiều. Bác bảo đi ăn cơm rồi lại bảo tôi và anh Hoan đi ngay về nơi đã bố trí. Bảy giờ mới đến nơi. Chiều hôm sau, thì Bác và các người cùng đi cũng về đến đó.

Tháng 12-1940, Bác về đến Tĩnh Tây, Bác bảo tôi về nước tìm một địa điểm. Bác dặn địa điểm cần hết sức bí mật, có hàng rào quần chúng bảo vệ và có đường rút lui. Tôi về tìm được vùng hang Pắc Bó. Các đồng chí còn ở lại thì đón số thanh niên đã từ bỏ Trương Bộ Công, đưa về một địa điểm huấn luyện, đợi ngày về nước.

Bác ở Tĩnh Tây được mấy tuần thì đã liên lạc được với Trung ương và các đồng chí trong nước ra gặp Bác, trong số đó có các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt.

Tôi về nước thì anh Hoàng Sâm làm liên lạc giữa Bác và anh Đồng, anh Lĩnh, với nhóm thanh niên. Tôi chuẩn bị xong địa điểm trở lại Tĩnh Tây thì Bác và các đồng chí đã đổi chỗ đi cả. Chỉ còn có anh Cao Hồng Lĩnh. Tôi được thư anh Hoàng Sâm để lại, hẹn lên Cổ Mã sẽ gặp. Tôi lên đến nơi thì có người đón về dự lớp Bác huấn luyện cho rồi kéo về nước hoạt động. Các đồng chí thanh niên quê ở đâu thì về hoạt động ở đó.

Tháng 1-1941, anh Kiên và tôi về địa điểm Pắc Bó. Anh Đồng, anh Hoan trở lại Tĩnh Tây. Anh Giáp về sau cũng ở lại Tĩnh Tây. Trong khi đó thì Trương Bội Công lập ra Việt Nam cách mạng đồng minh.

Trung ương đã gặp nhau ở Tĩnh Tây chuẩn bị hội nghị Trung ương lần thứ tám…”[1]

*

* *​

“Lần đầu tiên gặp Bác, tôi không thể nào ngờ rằng Bác là một lãnh tụ vĩ đại. Bởi vì cái vĩ đại của Bác là cái hết sức giản dị, bình thường, sát với quần chúng, như quần chúng. Bác là một lãnh tụ vĩ đại kiểu mới, là lãnh tụ của quần chúng. Bác không làm ai kinh ngạc, Bác ở gần ta, trở thành người cha, người anh của ta lúc nào cũng không biết, thấm sau vào tâm hồn ta dần dần mà vững chắc, trở thành mật thiết, thành một với tâm hồn ta lúc nào cũng không hay.

Bắt đầu từ những năm 1937-1938, tôi ở Xì Xuyên tức là Chi Thôn - một ga nhỏ trên đường sắt của Công ty Việt Điền. Hồi đó tôi là bí thư chi bộ, và vẫn lấy tên là Hoàng Quang Bình như bây giờ. Công khai, tôi dọn một ngôi hàng cắt tóc, đặt tên là hiệu Bình dân, lấy chỗ đó làm cơ sở liên lạc với công nhân.

Hoạt động thời gian này rất khó, phần vì bọn quân phiệt Trung Quốc chẳng ưa gì cộng sản, phần vì suốt dọc đường sắt Vân Nam, đâu đâu cũng nhan nhản những gián điệp, mật thám Mỹ, Anh, Pháp, Nhật. Chúng cũng chẳng ưa gì ta, và tìm mọi cách phá ta. Nhưng phá ta dữ dội hơn cả là bọn Việt Nam Quốc dân đảng phản động. Nghi ai là cộng sản chúng tìm cách trừ khử. Khi thì lén lút ám sát, khi thì giết trắng trợn. Trong những khu vực Tưởng Giới Thạch thống trị, cướp bóc xảy ra hàng ngày, một mạng người có nghĩa gì đâu. Đi ra đường không mấy lúc không thấy xác chết. Vào những năm 1939-1940, bọn Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ nối gót Nguyễn Thế Nghiệp lại càng làm dữ. Quần chúng Việt kiều ở đây trước hầu hết là có liên lạc với chúng, ủng hộ chúng, vì tưởng chúng là cách mạng. Nhưng những vụ tống tiền, giết người, cướp vợ người khác, những vụ chúng tranh mồi nhau, bắn giết lẫn nhau đã làm phơi rõ bộ mặt thật thổ phỉ ghê tởm của chúng. Kiều bào ta xa dần chúng, nhưng lòng tin tưởng ở cách mạng của kiều bào cũng theo đó bị giảm sút. Tôi tuyên truyền anh Tài Đức là công nhân lái đầu máy ở Khai Viễn. Anh lắc đầu chép miệng “Cách mạng đâu chứ cách mạng Việt Nam thì khó thành công lắm anh ạ. Trừ phi có cụ Nguyễn Ái Quốc sống lại thì mới làm được”.

Thực ra anh cũng như anh chị em ở đây chưa hề được gặp cụ Nguyễn Ái Quốc. Nhưng không biết tự bao giờ ba chữ Nguyễn Ái Quốc đã thấm sâu vào lòng những người công nhân ấy, để lại trong tâm hồn họ một ngọn lửa tin le lói nhưng bất diệt, lại bùng cháy lên những khi gặp chán nản, thất vọng ở đời.

Tình hình có khó khăn, nhưng có đường lối Mác - Lên-nin của Đảng, chúng tôi vẫn cố gắng hoạt động, và hoạt động được. Các đồng chí Trịnh Đông Hải, nay là đồng chí Vũ Anh là Lý Đông Hoa nay là đồng chí Hoàng Văn Hoan đã tổ chức được cơ sở Đảng và nắm được quần chúng. Bọn Quốc dân đảng xẹp dần, không dám khủng bố trắng trợn nữa, nhưng không phải là chúng chịu hẳn. Khẩu hiệu của chúng vẫn là : thà giết nhầm người không phải là cộng sản còn hơn tha nhầm phải cộng sản.

Riêng tôi, đối với sự sống chết của cụ Nguyễn Ái Quốc lúc đó cũng bán tín bán nghi, chẳng biết sự thực thế nào. Tôi thật không ngờ chỉ mấy tháng sau tôi được ăn cùng mâm, ngủ cùng nhà với Bác.

Hôm ấy, trời đã xế chiều. Tôi đang cắt tóc cho một khách hàng thì thấy bên kia đường có hai người đứng ngó sang. Mấy hôm trước tôi đã được anh Hoan báo cho biết là đồng chí Trần và đồng chí Lý về công tác. Đồng chí Lý thì tôi biết là anh Phùng Chí Kiên, nhưng chưa biết người, còn đồng chí Trần thì chưa biết là ai. Hiện đang có khách, tôi không ra được, mà các đồng chí cũng chưa tiện vào. Khi khách ra đi, đồng chí trẻ tuổi hơn trong hai người đi trước vào hỏi tôi. Nhận được nhau rồi thì biết đó là anh Kiên và đồng chí Trần thì chính là Bác. Nhưng cũng phải đợi đến khi cách mạng thành công, nghe qua đài phát thanh nhận được tiếng nói tôi mới biết cụ Hồ Chí Minh, cụ Nguyễn Ái Quốc với đồng chí Trần là một.

Tôi nhớ rõ hôm đó Bác mặc bộ áo ka-ki bạc màu, Bác chưa để râu. Trông Bác cũ kỹ, hiền lành như một ông già thôn quê, lại mảnh khảnh, gân guốc, nếu ai không nhìn cặp mắt rất sáng của Bác thì khó có thể chú ý đến Bác. Bác rất ít nói, chào hỏi xong thì ngồi im nghe anh Kiên và tôi nói chuyện. Tôi có cảm tưởng Bác có chút lạnh lùng, không vồ vập cởi mở như anh Kiên. Có lẽ Bác vụng về về sự giao thiệp chăng ?

Anh Kiên hỏi tôi về tình hình đường sắt, về cơ sở, hỏi tôi hoạt động như thế nào. Tôi báo cáo rõ cả, Bác nghe rất chăm chú, nhưng vẫn không nói gì. Cuối cùng, Bác mới hỏi anh em những ai hay ra đây. Tôi nói : Ở Xì Xuyên này, bọn Quốc dân đảng cũng mở một hiệu thợ cạo do anh em tên Điền, tên Mẫn cắt tóc. Chúng cắt khéo hơn tôi. Com-mi, xếp-tanh và công chức ở trong xít-tê[2] đều ra cắt ở đấy. Anh em thợ thuyền thì cắt bên này. Nghe xong Bác gật gù.

Nhà tôi, ngoài chỗ cắt tóc còn có một căn gác xép. Bác và anh Kiên, tôi và thằng con tôi là cháu Hải đều ăn ngủ trên đó. Gặp cháu Hải, Bác thân với nó ngay. Hay nói đúng hơn là nó quấn ngay lấy Bác.

Anh Kiên định chương trình làm việc. Trước hết tổ chức gặp gỡ anh em công nhân để biết tình hình cụ thể. Rồi sẽ mở một lớp huấn luyện cho chi bộ.

Anh Kiên bảo tôi mời anh em công nhân đến chơi. Anh hỏi han chuyện làm ăn , chuyện gia đình. Hỏi chuyện Tây đối đãi ra sao, đời sống anh em thế nào. Buổi nói chuyện kéo dài. Bác cũng chỉ ngồi nghe. Anh em công nhân cũng chẳng ai phân biệt ông già củ mỉ cù mì ngồi lặng im nghe chuyện đó chính là Nguyễn Ái Quốc mà họ hằng mơ ước.

Sau này còn có nhiều cuộc họp công nhân, nói chuyện về tình hình như thế. Anh Kiên vẫn nói chuyện với anh em. Anh Kiên bảo tôi khêu gợi anh em nhận xét. Anh em bảo anh Lý nói dễ hiểu, vui, anh em rất thích. Còn về ông già Trần thì anh em nói : Ông cụ ít nói quá. Thật thà và cục mịch, đúng là một ông lão ở thôn quê ta sang.

Riêng tôi cũng nghĩ Bác giản dị, kín đáo, và cũng thấy quả là Bác ít nói thật.

Nhưng Bác rất khiêm tốn, nên ít nói mà chẳng ai mếch lòng. Nhà tôi cả giường lẫn ghế chỉ có dăm bảy chỗ ngồi. Anh em công nhân đến, bao giờ Bác cũng đứng dậy để nhường chỗ. Anh em không chịu ngồi thì Bác cũng đứng luôn, không ngồi một mình bao giờ.

Nắm vững tình hình rồi, Bác và anh Kiên, mở một lớp huấn luyện cho chi bộ. Chi bộ chúng tôi chỉ có ba người, anh Đặng Tất Lạc là công nhân, anh Đặng Tất Vượng là tùy phái ở ga và tôi. Chương trình học sơ lược về chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tình hình thế giới, tình hình Đông Dương và cách mạng tư sản dân quyền. Sau lại học công tác chi bộ và lề lối làm việc của chi bộ. Khi giảng bài, Bác cũng vẫn ít nói, Bác giảng về duy vật biện chứng thường chỉ đặt vấn đề khêu gợi cho chúng tôi tìm hiểu. Bác lại hay lấy việc trước mắt, thâu lượm được trong tình hình công nhân làm dẫn chứng. Bác nói nôm na như người kể chuyện. Nói xong lại hỏi chúng tôi có hiểu không, hiểu như thế nào ? Thấy chúng tôi hiểu được chút ít, Bác lại hỏi rộng ra, lật lại vấn đề, gợi cho chúng tôi suy nghĩ.

Hàng ngày Bác dậy rất sớm. Nhà chật, gác lụp xụp, Bác vẫn tập thể dục, vươn vai, thở hút. Vận động xong thì Bác dọn dẹp trong nhà. Căn nhà tối tăm, bề bộn của một người nghèo như tôi bỗng trở nên ngăn nắp, quang quẻ, dễ thở hơn như mới có thêm ánh sáng.

Ban ngày tôi bận cắt tóc, Bác hay xuống bếp chẻ củi, thổi cơm. Anh Kiên nhặt rau. Người vợ cũ của tôi làm ăn vất vả, hóa ra khó tính, mà cũng rất hài lòng. Vợ tôi buôn gạo. Kỳ nào có gạo về Bác cũng ra vác hộ.

Một lần có gạo về tôi đang bận học, không có người khuân vác. Vợ tôi bực tức, gắt gỏng. Tôi giận quá, từ trên gác xuống, rút guốc đánh mấy cái. Vợ tôi chưa kịp bù lu bù loa thì Bác đã xuống rồi. Bác phê bình tôi : Sao anh lại làm như thế ? Rồi Bác rủ anh Kiên và tôi cùng ra vác gạo. Bác bảo : Vác gạo cũng quan trọng. Không vác gạo thì không có ăn ngay. Được nghe Bác nói, vợ tôi chừng cũng hả lòng, không mè nheo dai dẳng như mọi khi. Buổi tối, Bác lại phê bình tôi một lần nữa. Bác phân tích tại sao người đàn bà nghèo khổ phải gắt gỏng, truy đến gốc nỗi khổ của những người bị bóc lột. Bác hỏi tôi đã là một đảng viên sao còn hành động như thế ? Bác nói : về việc đoàn thể thì rất có thể chỉ vì hành động sai lầm cỏn con như thế mà lộ bí mật. Bác nói rất thấm thía. Tuyệt nhiên Bác không gắt gỏng hay bực bội, nên tôi nghe ra ngay. Bác phê bình mà thành câu chuyện tâm sự, thấu vào tận ruột, tận gan.

Nhớ lại lúc đầu gặp gỡ, Bác không vồ vập nhưng Bác đi sâu vào đời sống gia đình, giúp đỡ mọi việc thực tế, quan tâm thực sự đến đời sống vật chất và tinh thần của chúng tôi, nên Bác cảm hóa được mọi người trong nhà, gây được một nếp sống khác hẳn. Nhất là đối với cháu Hải, Bác săn sóc nó thật chu đáo, hơn cả tôi là bố nó. Nó ngủ nghẹo đầu thì Bác sắp gối, nhẹ nhàng đặt nó nằm thẳng lại. Đêm Bác dậy mấy lần đề đắp lại chăn cho nó. Bác luôn luôn lo cho nó ấm đề phòng nó sưng phổi. Bác sờ bụng nó thấy ăn no mà dải rút buộc chặt thì lại nới ra. Nhiều lần Bác tắm rửa cho nó, dặn nó phải ở sạch. Ngồi ăn cơm, tuy chúng tôi là chủ nhà, Bác vẫn giục chúng tôi gắp thức ăn. Bao giờ Bác cũng gắp thức ăn cho cháu Hải trước.

Thỉnh thoảng Bác rủ chúng tôi đi tắm suối, Bác nhân đấy hỏi han thêm về tình hình công tác, tình hình kiều bào và địa phương. Qua những nơi nào có cảnh đẹp Bác dừng lại ngắm nghía. Tính tôi xốc nổi có bận giục Bác đi mau. Bác bảo : ngắm cảnh đẹp rất tốt. Và muốn xem cảnh này giống cảnh nào trong nước mình.

Sau này biết Bác giỏi tiếng Trung Quốc, tôi rất lấy làm lạ. Suốt thời kỳ Bác ở Xì Xuyên, tuyệt đối Bác không nói một tiếng Trung Quốc nào, tiếng Pháp cũng vậy. Tôi mới học tiếng Trung Quốc và biết ít tiếng Pháp, thỉnh thoảng cũng xì xồ đôi tiếng với anh em bạn. Có lần anh em nói tiếng Pháp, hỏi tôi xem Bác là ông cụ nào ? Tôi trả lời Bác là ông cụ ở nhà quê mới sang chơi, Bác nghe chuyện vẫn im như không. Thật là một sự không ngờ. Bây giờ suy ra mới biết : Bác ít nói và không nói tiếng ngoại là công tác bí mật của Bác.

Bác rất tiết kiệm. Thuốc thơm hồi đó rất sẵn nhưng Bác chỉ hút thuốc cuốn lấy như sâu kèn. Thỉnh thoảng tôi có ít tiền, mua lẻ vài điếu thuốc thơm biếu Bác.

Bác giản dị nhưng thích mỹ thuật, yêu cái đẹp, ưa sạch sẽ. Lần đầu tiên tôi cắt tóc cho Bác. Bác bảo : “Anh nên năng giặt cái vải khoác này đi, khách sẽ vào hiệu ta đông hơn. Làm gì cũng phải làm cho tốt. Nhất là hiệu ta chỉ có anh em công nhân vào cắt tóc”.

Ở Xì Xuyên có một tên làm xếp-tanh, tính nó rất hung ác. Nó nuôi một em bé gái khoảng mười ba tuổi làm người ở.Nó thường đánh đập rất dã man. Nó mang cả kìm cặp vào đùi em bé. Em bị nó đánh vẹo cả mấy ngón tay trái. Một hôm nó hành hạ em quá, em bỏ trốn vào nhà tôi. Chúng tôi rất bực tức với thằng đó, định hè nhau choảng cho một trận. Bác hỏi han em bé quê quán ở đâu ? Cha mẹ là ai ? Em bé nói cha mẹ chết cả rồi. Người chú em đã bán em cho tên xếp-tanh kia. Bác nghe chuyện xong lặng đi một phút, rồi Bác thở dài. Bác bảo : “Có đánh thằng kia cũng chẳng diệt được cái gốc của tội ác. Vì thế nên ta phải làm cách mạng”.

Bác ở Xì Xuyên một tháng rồi Bác đi. Bác giao nhiệm vụ ở lại phải tiếp tục gây cơ sở. Đó là công việc Đảng. Gây cơ sở phải bí mật. Công khai thì phải tích cực vận động kiều bào ủng hộ Trung Quốc kháng Nhật. Bác bảo ủng hộ phải thiết thực. Nên lập một cái quỹ ủng hộ Trung Quốc kháng chiến. Chúng tôi làm một cái hòm, mời chính quyền địa phương đến niêm phong. Ai ủng hộ đồng nào thì tự tay bỏ vào đấy. Bác bảo việc này nhỏ nhưng ý nghĩa to, không được coi thường. Nhân dân Trung Quốc sẽ biết rõ những người cách mạng Việt Nam chân chính.

Cuối cùng Bác bảo : “Chúng tôi ở đây lâu, nay đi, đề nghị các đồng chí nhận xét phê bình”. Tôi nói chẳng có gì để phê bình cả, chỉ thấy nhớ. Bác hỏi tôi có yêu cầu gì không ? Tôi yêu cầu được liên lạc với đồng chí Trung Quốc, và có đồng chí Trung Quốc đến cùng công tác ở đường sắt. Bác lại hỏi còn yêu cầu gì nữa không ? Tôi trả lời không. Bác bảo nghĩ kỹ xem. Tôi nghĩ kỹ cũng không thấy cần yêu cầu gì thêm. Sau Bác bảo : “Không có yêu cầu để tôi yêu cầu ra cho. Các đồng chí ở đây cần giúp đỡ các đồng chí qua lại hoạt động. Phải cần đến tiền. Tôi đưa một số tiền vào tiền ăn của chúng tôi”.

Tôi nhất định không chịu nhận, nói việc chạy tiền nuôi các đồng chí là nhiệm vụ của chúng tôi. Bác bẻ lại : “Tôi đi công tác của Đảng có tiền Đảng nuôi. Tôi đưa tiền thì đồng chí có nhiệm vụ nhận”.

Tôi chẳng còn nói thêm gì được nữa.

Bấm trên máy tính để sang chương tiếp theo và bấm để quay lại chương trước


Đăng nhập để bình luận

Giới thiệu

Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Links

Liên hệ quảng cáo

  • Email: hoangforever1@gmail.com
  • Phone:
  • Skype: #
back to top