Bố tôi cứ nằn nì mời Bác và các đồng chí xuống ở với dân làng, với gia đình cho đỡ vất vả.
Bác vừa cười vừa nói :
- Ăn tết thế này là tết gia đình rồi đấy. Vẫn biết các cụ và bà con trong làng rất tốt, nhưng ở đây tiện công tác, tiện giữ bí mật… Bà con không có gì đáng ngại cho chúng tôi cả.
Bố tôi lại hỏi :
- Đồng chí đã nhiều tuổi rồi mà vẫn còn đi hoạt động được à ?
Bác lại cười và nói :
- Tôi già rồi, nhưng nhiệm vụ cách mạng còn đòi hỏi nên tôi vẫn hoạt động. Cụ cũng già rồi mà cụ vẫn làm cách mạng đấy thôi.
Bố tôi lắc đầu :
- Tôi suốt ngày chỉ quanh quẩn ở nhà, được việc gì đâu mà bảo làm cách mạng ?
- Cụ đã làm nhiều rồi đấy – Bác vui vẻ nói – Lâu nay cụ vẫn giữ bí mật, chăm lo chỗ ăn chỗ ở cho cán bộ, cụ lại vẫn trông nom gia đình để cho con cháu tham gia hoạt động, thế là cụ đã làm nhiều việc cho cách mạng rồi. Chỉ có bây giờ chúng ta cùng nhau cố gắng hơn nữa, làm cho toàn dân đoàn kết đứng lên, đánh đuổi bọn phát xít Nhật và bọn đế quốc Pháp, thì nhân dân ta mới được no ấm hạnh phúc…
Ở chỗ Bác về, cả hai bố con tôi đều im lặng. Chắc bố tôi cũng đang suy nghĩ nhiều về những lời Bác nói. Tôi cũng thế. Con người tôi như mới được tiếp thêm một sức mạnh mới. Trong bụng vui mừng phấn khởi. Cảnh vật chung quanh như thêm tươi đẹp. Những cơn gió lạnh đầu xuân không còn làm cho tôi thấy rét buốt nữa. Mặt trời đã hiện lên đỉnh núi rồi.
*
* *
Từ hôm được gặp Bác, tôi cảm thấy như không muốn rời Bác. Tôi muốn được nghe Bác nói nhiều, được Bác dạy bảo thêm. Nhưng, tôi chưa biết làm thế nào để được gần Bác. Hằng ngày tôi vẫn vào làm ở trong một đám nương chỉ cách chỗ hang của Bác một con suối. Một vài buổi đầu tôi vừa làm, vừa nhìn sang bên phía hang để xem các đồng chí làm việc. Vài hôm sau, tôi mon men dần dần đến chỗ Bác ở. Mỗi khi thấy tôi đến, dù bận đến đâu Bác cũng dừng tay lại, hỏi :
- Đại Lâm đến có việc gì thế ?
Mới đầu tôi còn tìm được câu trả lời : “Cháu đến thăm các đồng chí”. Sau tôi không biết trả lời thế nào nữa. Chắc Bác cũng hiểu nguyện vọng của tôi nên mỗi lần tôi đến, Bác thường giữ tôi lại, và nói chuyện cho tôi nghe. Bác còn bày cách cho tôi :
- Hôm nào chú làm cả ngày ở đây thì mang gạo lên gửi đồng chí Lộc nấu ăn chung rồi trưa nghỉ lại nói chuyện được nhiều hơn. Như vậy đỡ mất thì giờ đi lại mệt nhọc.
Tôi nghe Bác nói như mở cờ trong bụng. Tôi thấy mình là một thanh niên mới tham gia hoạt động cách mạng được vài năm, nay được các đồng chí lãnh đạo chú ý dìu dắt, giáo dục thì thật là một điều vinh hạnh. Cho nên, dù công việc nhà bận đến đâu, tôi cũng cố gắng hằng ngày đi sớm vào chỗ Bác, đến tối mịt mới về. Có hôm nghe dở câu chuyện, tôi xin ngủ lại trên hang với Bác và Bác cũng đồng ý.
Thời gian này Bác dạy tôi nhiều điều. Chuyện của Bác không bao giờ hết. Bác giảng cho tôi nghe về tình hình thế giới, tình hình trong nước và con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Có những vấn đề, lúc đầu tưởng xa xôi khó hiểu, nhưng sau nghe Bác nói tôi cứ sáng ra dần, và càng ham thích tìm hiểu rộng thêm. Như có lần Bác nói về tình hình thế giới, Bác hỏi tôi :
- Chú đã biết thủ đô các nước lớn như Liên-xô, Anh, Pháp, Đức chưa ?
Tôi lắc đầu nói :
- Công việc trước mắt còn chưa kịp làm nữa là những chuyện đó !
Bác vừa cười, vừa giải thích cho tôi, đại ý như sau :
- Cách mạng của ta liên quan đến cách mạng thế giới, nên không thể chỉ biết một nước mình được. Hiện nay, bọn phát xít Đức đang tấn công Liên-xô, nhưng Hồng quân Liên-xô nhất định đánh đến cùng phát xít Đức không thể tiến vào thủ đô Mạc Tư Khoa được. Tổ quốc cách mạng thế giới nhất định đứng vững. Chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng đón thời cơ. Hồng quân đang tiêu hao dần quân Đức, làm cho chúng suy yếu, đến lúc nào đó sẽ phản công đuổi chúng một mạch đến tận thủ đô Bá-linh của chúng, lúc đó đại chiến sẽ chấm dứt. Đó cũng là thời cơ cho cách mạng Việt Nam nổi dậy.
Thì ra Bác hỏi thủ đô các nước là để dẫn tôi đến chỗ hiểu sự liên quan giữa tình hình thế giới và cách mạng ta. Từ đó, những tên thủ đô Mạc Tư Khoa, Bá-linh, v.v… là những tên tôi nhớ như in không thể nào quên được.
Một điều Bác hay hỏi đi hỏi lại, và cũng là điều tôi nhớ nhất là : “ Đi làm cán bộ, đảng viên thì phải giữ vững đạo đức cách mạng. Phải làm cho dân tin, dân yêu, dân phục. Làm cho dân tin, nghĩa là phải trung thành, thực thà. Làm cho dân phục, nghĩa là phải đứng trước quần chúng khi nguy nan khó khăn. Làm cho dân yêu nghĩa là phải kính già yêu trẻ, đứng đắn với phụ nữ, bình đẳng với mọi người. Lại phải cần kiệm liêm chính, nhân nghĩa, trí, dũng,…”
Đạo đức cách mạng đó không những tôi được nghe Bác nhắc đi nhắc lại, mà tôi còn học tập được ngay ở bản thân Bác. Có đến hang Cốc Bó mới thấy hết điều kiện sống của Bác ở đây rất gian khổ. Cái hang của Bác ở trên núi cao, từ bờ suối trèo lên phải qua một quãng dốc khá dài, có cây rậm rạp vít chặt lối đi, hễ mưa xuống là trơn nhẫy và vắt ra nhiều như trấu. Lên đến cửa hang, muốn vào trong còn phải chui sâu xuống dưới không bám chắc tay có thể tụt, ngã.
Chỗ hang Bác ở chật chội, có hai ba ngách nhỏ. Trong một ngách có tảng đá to, Bác gác vài cái que, rải lá lên làm giường nằm. Không khí ở hang ẩm thấp. Ngày nắng ráo còn khá, những hôm trời mưa rét ẩm ướt, nằm trong hang cảm thấy lạnh buốt thấu xương. Những giọt nước mưa tụ lại ở trên đỉnh hang rơi xuống lách tách như không bao giờ dứt. Cũng có lúc tôi nghĩ : cho mình ở thế này mấy ngày liền chắc cũng khổ sở lắm. Tôi sinh ra và lớn lên ở trên vùng rừng núi, nhìn cảnh đó đã thấy ngài ngại. Còn Bác tuổi đã nhiều, người lại gầy yếu thế mà Bác vẫn ung dung không lúc nào tỏ ra mệt nhọc.
Tối nào cũng mười giờ hơn hoặc mười một giờ Bác mới đi ngủ. Sớm ra mới độ bốn rưỡi hoặc năm giờ, sương trên núi chưa tan, Bác đã dậy thu xếp đồ đạc, rồi chạy xuống bờ suối tập thể dục và cuốc đất làm vườn. Có hôm Bác đi chơi núi, Bác leo núi rất khỏe, thanh niên còn khó mà theo kịp. Bác còn làm mọi công việc lao động như : lấy ống bương đi xách nước nấu cơm, đi hái rau rừng, câu cá, mò ốc… Bác thường mặc bộ quần áo Nùng màu chàm, ống tay rộng. Thức ăn của Bác chỉ có rau bí, rau cải, rau rừng, măng đắng một phần do nhân dân biếu, còn phần lớn là tự túc… Họa hoằn mua được một ít thịt thì lọc hết mỡ đem rán để dành, còn thịt nạc băm nhỏ, xào thật mặn, mỗi bữa ăn một tí. Những tháng giáp hạt, nhân dân ăn độn ngô thì Bác cũng ăn độn ngô, có khi phải ăn cả thứ ngô non xay để lâu đã bị chua.
Bác đọc rất nhiều sách, viết nhiều tài liệu, lại còn dành thời giờ trực tiếp huấn luyện cho cán bộ. Những hôm trời nắng, Bác thường ra ngồi bờ suối làm việc. Bác lại hay làm thơ nữa. Những câu thơ sau đây, hồi đó tôi được Bác đọc cho nghe, bây giờ tôi vẫn nhớ như in :
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Lúc đó, tôi chưa hiểu hết được ý nghĩa sâu sắc của những câu thơ Bác làm, rôi chỉ mang máng thấy tinh thần lạc quan, tin tưởng, yêu đời của Bác. Gần Bác, cứ mỗi ngày tôi lại học thêm được những bài học sống. Tôi tự nghĩ mình đã tham gia cách mạng lại mang danh là cán bộ, đảng viên mà chưa làm được gì mấy cho cách mạng và so với đạo đức sáng ngời của Bác thì mình chưa có mảy may. Tôi hồi tưởng lại lúc tôi mới vào Đảng. Hồi đó là tháng 4 năm 1940, tôi và một số đồng chí hội viên Cứu quốc đã được kết nạp cùng một lúc, mặc dù chúng tôi mới chỉ có lòng tin yêu Đảng, chứ chưa được nghiên cứu kỹ điều lệ, tôn chỉ, mục đích cho thông suốt. Lễ kết nạp như vậy cũng là phổ biến ở một số vùng của Cao Bằng hồi đó. Bác đã phê bình ngay việc phát triển Đảng một cách ồ ạt như trên, Bác nói đại ý :
- Nhà phải có cột mới vững. Đoàn thể cách mạng cũng phải có cột mới vững – cột đó là Đảng. Con số đảng viên của Cao Bằng hiện nay đã có tới mấy trăm, nếu như vậy thì cách mạng sắp nổ ra đến nơi rồi. Phải củng cố lại, làm cho Đảng vững mạnh hơn nữa…
Có lần Bác hỏi tôi :
- Chú có biết chủ nghĩa cộng sản là thế nào không ?
Tôi lúng túng không biết trả lời ra sao – vì tôi đã được nghe ai nói rõ ràng đâu. Sau bí quá, tôi đành phải nói :
- Cộng sản là đánh Tây, đánh thổ phỉ, không cho chúng cướp bóc.
Bác khen tôi trả lời có điều đúng, nhưng chỉ mới là việc trước mắt, chưa thấy rõ con đường cách mạng lâu dài. Rồi Bác nói cho tôi nghe nguồn gốc từ đâu mà có chủ nghĩa cộng sản. Bác giảng thêm, đại ý : Hiện nay chúng ta còn khổ là do còn có giai cấp áp bức bóc lột. Chủ nghĩa cộng sản là đi đến xóa bỏ giai cấp không còn áp bức bóc lột, đi tới một thế giới đại đồng, mọi người đều được hưởng hạnh phúc… Bác đã mở cho tôi thấy cả một tương lai rực rỡ.
Rồi Bác lại hỏi tôi :
- Đảng ta là Đảng gì ?
Chỗ này tôi lại càng ít được nghe, tôi chỉ biết Đảng là Đảng thôi, nên tôi không trả lời được.
Bác giảng giải cho tôi :
- Đảng ta là Đảng cộng sản Đông Dương, là một chi bộ của Quốc tế cộng sản…
Tôi thích nhất khi nghe Bác nói, đại ý :
- Hiện nay đã có những nước có Đảng như ta rồi, nhưng cũng có nơi phong trào còn gặp nhiều khó khăn ; còn Đảng ta ra đời tiếp thu được nhiều kinh nghiệm các Đảnh anh em và đã anh dũng chiến đấu có thành tích vẻ vang nên được Quốc tế cộng sản công nhận rồi…
Thế là qua nhiều lần được nghe Bác, tôi dần dần hiểu rõ về Đảng, về chủ nghĩa cộng sản, về đạo đức của người đảng viên. Tuy những hiểu biết của tôi lúc đó chưa phải là đầy đủ, nhưng tôi cảm thấy con người của mình lớn thêm một bước. Tôi lại nhận rõ một điều : muốn xứng đáng là cán bộ, là đảng viên, tôi còn phải học tập, phải cố gắng nhiều hơn nữa.
Cũng từ ngày đó, chúng tôi say sưa lao vào công tác. Chúng tôi tích cực đi tuyên truyền quần chúng để tổ chức vào Hội, vào Đảng. Bác thường dạy bảo chúng tôi : Muốn tuyên truyền quần chúng, phải làm theo đúng 5 bước công tác, không được bỏ sót bước nào. Phải gây được cảm tình trước đã, rồi mới nói đến cách mạng, nói đánh Tây, tổ chức hội… Mỗi khi tuyên truyền được ai, chúng tôi lại về báo cáo với Bác, Bác chăm chú nghe, bảo chúng tôi kể lại đúng từng lời nói của quần chúng. Sau đó, Bác nhận xét cách làm của chúng tôi, rồi vạch ra cho chúng tôi phương hướng tiếp tục tiến hành. Đối với những lời nói tốt, xấu của quần chúng, Bác đều phân tích để đề ra kế hoạch giáo dục cho sát. Bác thường nói : “Đối với nhân dân quần chúng phải kiên nhẫn giáo dục một lần không được thì hai lần, nếu cần tới trăm nghìn vạn lần cũng không được nản”.
Từ chỗ Pắc Bó chỉ có một vài đảng viên, qua một thời gian phát triển, chi bộ đầu tiên ở Pắc Bó được thành lập. Thế là Pắc Bó đã có tổ chức Đảng lãnh đạo, đó chính là hạt giống đỏ đầu tiên ở Pắc Bó do Bác trực tiếp gieo trồng.
Giữa lúc chúng tôi đang say sưa với những thắng lợi bước đầu của phong trào, thì cũng là lúc quân địch đã đánh hơi thấy hoạt động của cách mạng và ra sức chuẩn bị đánh phá các cơ sở vùng Pắc Bó. Nhưng Bác đã kịp thời họp chúng tôi lại. Sau khi nêu một số tình hình địch, Bác nói đại ý :
- Các đồng chí phải thận trọng, phải chuẩn bị chống khủng bố. Chúng có thể mở một cuộc khủng bố lớn. Nếu cơ sở quần chúng có bộ phận nào bị tan vỡ, thì các đồng chí cũng không bi quan. Thắng không kiêu, bại không nản, phải luôn luôn tin tưởng vào nhân dân, vào cách mạng…
Bác lại vạch ra kế hoạch chống khủng bố :
- Phải chuẩn bị địa điểm, tổ chức người cất giấu đồ đạc, làm vườn không nhà trống. Tổ chức canh gác, tập báo động, thông tin, truyền tin chu đáo. Chuẩn bị sẵn cả những căn cứ cho các bộ phận lãnh đạo. Đối với nhân dân quần chúng, phải chia từng khu vực, từng bộ phận, phân công cán bộ đến bám sát, sống chết với quần chúng. Phải chú ý lựa chọn và bồi dưỡng các hội viên trung kiên được càng nhiều càng tốt ; trong 100 người, yêu cầu nắm ít nhất 3 người trung kiên – tức là những người suốt đời sẽ đi với cách mạng. Khó khăn, gian khổ thế nào cũng không chùn bước. Phải bồi dưỡng trước những người đó để họ làm gương mẫu trước quần chúng, rồi qua mỗi lần chống khủng bố lại thử thách, sàng lọc lấy thêm những phần tử trung kiên…
Việc bồi dưỡng trung kiên này được Bác hết sức chú trọng. Làm việc gì, ở đâu, và trong bất cứ trường hợp nào. Bác cũng nhắc chúng tôi phải thực hiện cho kỳ được.
Bác không quên nhắc đến lực lượng tự vệ. Bác dặn đi dặn lại :
- Lực lượng vũ trang tự vệ phải được nâng cao về chất và mở rộng về lượng hơn nữa, nhưng khi có lệnh, mới được đánh, chưa có lệnh không được đánh. Diệt địch phải có thời cơ. Lúc này phải chuẩn bị lực lượng và bảo toàn lực lượng của mình cho tốt.
Nghe Bác nói, một số cán bộ đảng viên chúng tôi lúc đầu vẫn chưa thật thông suốt. Tôi thầm nghĩ : Phong trào cách mạng đang lên phơi phới. Tổng lý, kỳ hào và cả một số lính đồn đã vào hội theo ta, chính quyền địa phương, từ thôn đến xã coi như đã ở trong tay cách mạng. Suốt ngày đêm, các hội cứu quốc tha hồ khai hội… Thằng địch đã co vòi lại. Như vậy thì còn sợ gì nó nữa mà phải lo lắng đến chuyện chống khủng bố ?
Tôi nghĩ như thế mà không dám hỏi Bác. Một số đồng chí khác cũng có ý nghĩ như tôi. Có đồng chí lại còn nói cứng rằng : “Cứ hẹn nhau đến một ngày hoặc một đêm nào đó, có hiệu lệnh thống nhất tất cả nổi lên giết hết bọn Pháp trên đồn Sóc Giang, thế là cách mạng thành công, Việt Nam nhất định độc lập…”.
Mấy ngày sau, chúng tôi vẫn chấp hành ý kiến của Bác, nhưng trong bụng chưa thật thoải mái. Một hôm, chúng tôi mạnh dạn nói điều đó ra với Bác. Bác ôn tồn giải thích, đại ý :
- Cách mạng với đế quốc như nước với lửa. Đế quốc như nồi nước, cách mạng như ngọn lửa. Nước với lửa bao giờ cũng mâu thuẫn nhau. Lửa cháy càng mạnh, nước sẽ sủi bọt, đến một lúc nào đó, nó trào ra, làm cho lửa tạm thời tắt đi, phải nhóm lại. Lúc đó lửa lại bốc lên, rồi nước lại có thể trào ra làm lửa lụi đi lần nữa. Nhưng, nếu ta cứ kiên nhẫn nhóm lửa, nhóm đi nhóm lại và đun mãi, nhất định nước cũng phải cạn, đến cả nồi gang cũng phải cháy. Đối với bọn đế quốc cũng như thế. Khi ngọn lửa cách mạng đốt vào chúng, chúng sẽ quay lại khủng bố, nhưng phải kiên quyết chống lại, cũng như kiên quyết nhóm lửa không cho lửa tắt, thì đế quốc nhất định sẽ thất bại…
Những hình ảnh cụ thể Bác gợi lên đã làm cho chúng tôi hiểu rõ và nhớ như chôn chặt vào ruột. Dân chúng tôi từ xưa đã quen dùng nồi gang, chảo gang, đã có những lần đun quá lửa đến nỗi nồi gang, chảo gang cũng vỡ, cho nên Bác nói là chúng tôi hiểu ngay.
Chúng tôi lại hỏi thêm :
- Còn việc tổ chức các hội viên trung kiên, cứ tổ chức rộng ra 100 người sau chỉ cốt còn 3 người cũng được, như vậy thì tổ chức rộng ra làm gì cho thêm khó khăn ?
Bác lại bảo, đại ý :
- Khó thế nào thì khó vẫn phải có mặt tuyên truyền tổ chức quần chúng rộng rãi, một mặt giữ vững trung kiên, đã là trung kiên thì tất nhiên là họ sẽ đứng vững. Nhưng nếu có khó khăn chỉ còn được 3 người cũng được, mà bất đắc dĩ không còn ai nữa cũng không vì thế mà bây giờ không làm.
Chúng tôi chưa hiểu thế nào, Bác lại giải thích thêm, đại ý :
- Nếu trung kiên có bị tan không còn giữ được ai chăng nữa, thì ít nhất những người đó cũng đã hiểu là có cách mạng, có đoàn thể Việt Minh đang lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Rồi từ đó, họ sẽ nghĩ lại và dần dần họ sẽ cùng với quần chúng tự động đứng lên tiếp tục làm cách mạng.
Lòng quyết tâm xây dựng trung kiên của Bác mãi sau này tôi mới thấy rõ tác dụng. Có những thời kỳ, ở vùng Lục Khu giáp với Pắc Bó, địch khủng bố mạnh, cơ sở quần chúng tan vỡ hết, chỉ còn lại hai quần chúng trung kiên. Hai quần chúng này cũng phải chạy bạt sang bên kia biên giới. Nhưng phong trào ở Lục Khu không phải tan rã hẳn rồi dần dần lại phục hồi. Khi giặc rút, quần chúng trung kiên lại trở về lãnh đạo làng bản. Đến khi Nhật đảo chính Pháp, cán bộ chưa về kịp, quần chúng ở đây đã tự động đứng lên đánh đuổi bọn Pháp và tay chân của chúng.
Còm một vấn đề nữa từ lâu chúng tôi vẫn băn khoăn nhân lúc này, cũng đem nốt ra hỏi Bác :
- Súng đạn mình ít thế này thì làm thế nào chống khủng bố có kết quả. Mà làm thế nào cho nhân dân tin tưởng được ?
Đó cũng là thắc mắc phổ biến của cán bộ, đảng viên và quần chúng Pắc Bó lúc bấy giờ. Mỗi khi chúng tôi đi tuyên truyền tổ chức quần chúng, trước hết người ta nói : “Tây nó ác, nó khỏe lắm, dân mình chỉ biết đi cày, không đánh được đâu !”. Hoặc đến lúc muốn đánh Tây rồi, người ta lại hỏi : “Đánh Tây thì súng đâu mà đánh ?”.
Gặp câu hỏi đó là chúng tôi bí, có khi không biết nói thế nào, vì chính mình cũng mong được một khẩu súng như trẻ mong quà của mẹ đi chợ về.
Nghe chúng tôi hỏi, Bác đáp :
- Chẳng việc gì phải lo thiếu súng. Muốn đánh được giặc thì lấy súng giặc, dùng binh lính giặc mà đánh.
Chúng tôi chưa kịp suy nghĩ thì Bác đã hỏi :
- Chú thấy trên đồn Sóc Giang có bao nhiêu lính ?
- Độ bảy, tám chục tên.
- Trong số đó có bao nhiêu thằng Tây ?
- Có ba, bốn thằng, kể cả quan lẫn đội xếp.
Bác nói tiếp :
- Vậy bảy, tám chục lính người Việt Nam ấy có diệt được ba, bốn thằng Tây kia không ?
- Làm gì chả được – Tôi vội vàng trả lời.
Đến đây Bác mới giải thích cho chúng tôi, đại ý là :
- Quân địch hiện nay còn mạnh mà đoàn thể ta còn nghèo, không thể một lúc làm ra đầy đủ súng đạn. Nếu ta đem quân đánh thẳng vào đồn của nó thì khó. Mà cán bộ mình cố tìm cách vào gặp lính trong đồn nó cũng không dễ gì. Nhưng phải nhớ một điều là họ có gia đình. Khắp toàn quốc ở thành phố, nông thôn, đâu cũng có gia đình họ và tổ chức của ta. Mình cứ việc đến tuyên truyền, giải thích để họ bảo anh em, chồng con của họ. Như vậy binh lính khắc dần dần giác ngộ, đến lúc nào đó, họ sẽ cùng ta vùng dậy đánh đuổi bọn thống trị. Thằng Tây lúc đó dù có ba đầu sáu tay cũng sẽ bị tiêu diệt, và súng đạn lúc đó muốn lấy bao nhiêu cũng sẽ có, nghĩa là : “Có dân thì rồi sẽ có cả”.
Tôi nghe Bác nói mà khoan khoái trong lòng ! Thế mà từ trước đến nay đầu óc mình chưa nghĩ ra những chuyện to lớn mà đơn giản như vậy, do đó mà cứ loanh quanh không có lối thoát.
Bác lại nhấn mạnh thêm, đại ý :
- Điều quan trọng hơn cả là phải có quyết tâm. Có súng thì dùng súng, không có súng thì dùng gậy, dùng hết gậy thì dùng dao, nếu hết dao thì dùng đầu, đầu đau thì dùng răng. Mấy chục triệu dân Việt Nam ta mà một lòng kiên quyết như thế thì bọn đế quốc thế nào cũng phải chết…” [5]
*
* *
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận