“… Trên đường chúng tôi đi, anh em Cao Bằng đã bố trí canh gác. Chúng tôi gặp tỉnh ủy, dặn anh em đề phòng cẩn thận hơn nữa, đặt mối liên lạc khắp nơi để nắm sát tình hình địch, chuẩn bị đối phó với mọi sự bất trắc. Rồi liên lạc đưa chúng tôi theo đường rừng, đi mãi, đi mãi đến một vùng rất hẻo lánh, trèo qua một đám ruộng bậc thang, rồi men theo con đường suối lượn vòng vèo, vào đến một khe rừng sâu thẳm, ở lọt thỏm giữa ba bề vách núi đá. Từ xa đã trông thấy một ông già mặc áo chàm, giá không để ý thì cũng tưởng như bao nhiêu ông cụ già khác trên này. Ông cụ ra đón chúng tôi, cười vui vẻ lắm. Tôi để ý nhìn : ông cụ người gầy nhưng mắt sáng, trán cao, có chòm râu hơi thưa, đen, đẹp. Đến tận lúc bấy giờ, các anh phụ trách trong đoàn mới cho tôi biết :
- Đại biểu quốc tế đấy. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đấy.
Biết là được gặp đại biểu quốc tế trong bụng đã sẵn mừng, đại biểu quốc tế lại chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc nữa, mừng này lại càng không biết nói sao cho hết. Nguyễn Ái Quốc, tên ấy là tin tưởng sâu xa của toàn thể đảng viên, toàn thể quần chúng của Đảng, của tất cả mọi người Việt Nam dưới thời nô lệ không quên nhục mất nước, của bất cứ ai còn có lòng với dân, với nước. Tôi hồi nhớ khi còn ngoài Côn Đảo, được tin Nguyễn Ai Quốc bị bắt ở Hương Cảng, tất cả chúng tôi vô cùng lo lắng. Đến khi đồng chí, nhờ sự hoạt động ráo riết của Quốc tế cứu tế đỏ, thoát khỏi tay mật thám Anh, tin ấy vừa đến đảo, ai nấy thở phào mừng rỡ. Trong bao nhiêu năm anh em hoạt động vẫn thường nói đến tên đồng chí, với sự tin phục, kính ái khác thường. Thật ít ai dám nghĩ đời mình lại có dịp gặp người chiến sĩ ưu tú của phong trào chung ấy. Cho nên, khi gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc ra bắt tay chúng tôi từng người một, lòng tôi xúc động hết sức, không biết xưng hô bằng gì, tay tôi nắm chặt lấy tay Người. Tiếng nói nghẹn ngào của tôi lúc ấy, Bác đến giờ còn nhớ, đôi khi vui chuyện, Bác lại cười nhắc đến : “Việt lúc ấy lại chào mình : đồng chí ạ.”
Mới đầu chúng tôi đều gọi Bác là đồng chí, rồi gọi là Cụ, sau thấy anh Trường Chinh và anh Thụ dùng tiếng Bác, anh em thấy gọi như thế hợp với lòng mình, nên từ đấy, chúng tôi bắt đâu thưa với Bác bằng cái tên thân yêu mà bây giờ tất cả anh chị em chúng ta đều gọi.
Chỗ họp của chúng tôi cũng ở xóm Pắc Bó, Hà Quảng, nhưng khác chỗ Bác ở tức là hang Pắc Bó mà sách báo ta thường tả. Khu rừng kín đáo lắm, tôi nhớ nhiều sáng, chúng tôi phải ra tận chỗ đám ruộng bậc thang cho thoáng để vận động cơ thể và thở hít không khí. Lều dựng bên suối, khi mưa, nước xối lênh láng cả sàn nhà. Chỗ họp thì tôi nhớ hình như có một cái chõng tre, anh em ngồi họp, mỗi người ngồi một khúc gỗ. Chính ở chốn hoang vu, bí hiểm ấy, trong túp lều đơn sơ trống trải, đã là nơi bàn đến những vấn đề thiêng liêng nhất : vận mệnh Tổ quốc, định những việc có tầm quan trọng quyết định đối với lịch sử nước nhà sau này. Như ta đều biết, hội nghị Trung ương lần thứ Tám đã xác định những điều cơ bản về chính sách dân tộc của Đảng, vạch rõ được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội ta trong lúc ấy, đề ra chính sách mới của Đảng đối với các giai cấp và định một chiến thuật vận động cách mạng thích hợp.
Bác ngoài giờ họp thường gọi từng đại biểu các xứ ra một chỗ riêng hỏi chuyện. Tôi được Bác hỏi đến hai ba lần, Bác hỏi tôi về sinh hoạt của nhân dân, chính sách áp bức bóc lột của Nhật, Pháp. Tôi báo cáo lại với Bác về tình cảnh của đồng bào ta, từ khi chiến tranh xảy ra, nhất là từ khi Nhật vào, lại càng bị đế quốc bòn rút thậm tệ. Nào là chính sách vơ vét thóc lúa của Pháp, nào là những chuyện cướp bóc của Nhật và gần đây nhất, những vụ đuổi dân chiếm đất làm sân bay, trại lính. Câu chuyện lính Nhật hành hạ đồng bào ta ở Gia Lâm mà hồi ấy bà con ta ai nghe đến cũng phải chau mày uất giận : có một cụ già bị giặc Nhật nó nghi là ăn cắp, nó đem cụ buộc vào ngựa rồi thúc ngựa kéo lồng lên. Người bị ngựa kéo tắc thở mà chết. Giống phát xít dã man đến thế là cùng, Bác ngồi trên một mỏm đá, nghe tôi kể ứa nước mắt, kéo vạt áo chàm lên lau trên gò má, khiến tôi cũng không sao cầm nước mắt được. Có lần thì Bác hỏi đến lực lượng của phong trào, tình hình tổ chức quần chúng, tình cảnh sinh hoạt của cán bộ, nhất là cách đi lại hoạt động phòng gian bảo mật của cán bộ ta. Bác hỏi rất cặn kẽ tỉ mỉ. Qua lời Bác hỏi, tôi cảm thấy lòng Bác thương yêu nồng nàn đồng bào, đồng chí, quan tâm tha thiết đến đời sống của đồng bào và đồng chí ta. Hỏi xong, Bác lại góp ý kiến về kinh nghiệm công tác cụ thể.
Được đến dự hội nghị, trong đầu óc tôi, nhiều vấn đề được sáng tỏ. Đến khi Bác nói kết thúc hội nghị, nhận thức của tôi lại càng như có nắng mới tràn vào. Nghe Bác nói, từ khe rừng Pắc Bó âm thầm, tôi nhìn thấy rõ tiền đồ tươi tắn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới. Điều Bác nói, ngày nay đã thành sự thật, rõ như ban ngày, đối với tôi lúc ấy, là cả một bầu trời chân lý. Tháng 5-1940, chiến tranh Xô-Đức chưa xảy ra, Bác đã nhận định thế nào rồi phát xít cũng tiến công Liên-xô. Nếu chúng đánh Liên-xô thì Liên-xô sớm muộn thế nào cũng tiêu diệt chúng, nhờ đó, cách mạng nhiều nước có thể thành công, “chúng ta sẽ có – lời Bác nói – không chỉ một mình Liên-xô mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác nữa sẽ ra đời”. Viễn ảnh của thế giới mới sẽ thành hình sau đêm tối của chiến tranh, hiện lên như một bình minh rạng rỡ, làm ai không phấn khởi ? Rồi Bác nói về cách mạng Đông Dương. Bác nhấn mạnh : “chỉ có trong vòng mấy tháng mà có ba cuộc khởi nghĩa nổ ra, hết Bắc Sơn, đến Nam Kỳ, lại Đô Lương nữa. Điều đó chứng tỏ : nhân dân ta rất anh hùng, lại rất thính về chính trị, cho nên có cơ hội là nổi lên liền. Tinh thần cách mạng của dân mình lớn lắm. Phải thấy tinh thần đó rất quí”. Bác có nói đại ý như vậy. Ngẫm cho kỹ, lời Bác nói rất sâu sắc. Chẳng những đúng với lúc Bắc Sơn, Nam Kỳ và Đô Lương khởi nghĩa. Bất cứ thời kỳ vận động cách mạng nào của đảng, hồi 1931 cũng như mấy năm vận động Mặt trận dân chủ, ta cũng đều thấy sức quật khởi của phong trào ta rất mãnh liệt. Nhìn lại cả lịch sử nước nhà, càng thấy rõ, anh dũng, quật cường đã thuộc về bản chất của giai cấp ta, dân tộc ta. Và có thêm lòng tin sâu xa ở lực lượng quần chúng, vào giờ phút quyết định lúc bấy giờ, tôi càng thấm lời Bác nói : “Đảng phải khơi lên cho hết chí khí cách mạng, tinh thần yêu nước của tầng lớp nhân dân, tập trung mọi lực lượng giải phóng dân tộc, đánh đuổi Pháp, Nhật, hướng mọi công tác của Đảng vào khâu trung tâm cứu quốc.
Việt Minh đã ra đời chính ở khu rừng Pắc Bó này. Khi chọn một cái tên có tác dụng hiệu triệu cho Mặt trận dân tộc thống nhất, chúng tôi thấy hai chữ phản đế có phần cứng quá và hai chữ phục quốc thì bị bọn thân Nhật bôi nhọ làm mất cả ý nghĩa tốt đẹp của nó. Cuối cùng lấy tên Việt Minh độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Hai chữ Việt Minh, trong cả một thời kỳ dài, làm nức lòng đồng bào cả nước. Hai chữ Việt Minh còn mãi trong lịch sử, chói lọi nét vàng. Chính Bác lại viết ra mười điều chính sách Việt Minh. Rồi sau hội nghị, Bác tự tay thảo ra bức thư nhân danh cá nhân kêu gọi đồng bào : “Kính cáo đồng bào thư” ký tên Nguyễn Ái Quốc. Bức thư ấy, Bác viết bằng chữ nôm, chữ viết đẹp lắm, chúng tôi có đem về xuôi, in đá li-tô, phát đi rất rộng. Nghĩ cũng lạ, bao nhiêu năm Bác sống ở nước ngoài, đi khắp nơi, công tác rất bận, vậy mà Bác vẫn còn nhớ chữ nôm của các cụ ta. Lại rất sát tâm lý đồng bào nông thôn. Đồng bào nông thôn ta được đọc thư Bác viết bằng chữ nôm như thế, nhất là các cụ phụ lão, gật gù thích lắm, càng thêm tin lắm.
*
* *
Đến ngày họp xong, anh em chúng tôi chuẩn bị ra về, thì một chuyện xảy ra làm chúng tôi nhớ mãi. Các đồng chí ở miền Nam, vì đường xa, chuẩn bị đi về trước. Sắp sửa hành lý xong đâu vào đấy, Bác đến tận nơi hỏi thăm :
- Các đồng chí sắp sửa xong chưa ?
- Thưa Bác, xong xuôi đâu vào đấy cả rồi ạ.
- Thế các đồng chí có nhớ lời tôi dặn không ? Không ai mang tài liệu hội nghị về theo đấy chứ ?
Các đồng chí miền Nam vì e liên lạc khó khăn nên lo xa, đã chép tài liệu hội nghị vào những mảnh giấy rất nhỏ, vê lại, giấu kỹ vào viền áo. Bác bắt tháo ra hết và phê bình rất nghiêm :
- Tôi đã nhắc các đồng chí mấy lần mà các đồng chí không nghe. Các đồng chí không được mang tài liệu theo người. Địch nó bắt được các đồng chí, không phải chỉ thiệt cho một mình các đồng chí. Các đồng chí người ít tuổi cũng trên hai mươi rồi, người nhiều tuổi thì đã ngoài ba mươi. Nhân dân tốn bao nhiêu công sức mới nuôi được các đồng chí nên người. Phong trào bây giờ, những người như các đồng chí, nhỡ có thế nào, không phải một ngày mà có người thay ngay được. Các đồng chí phải nghe tôi, tài liệu hội nghị, tôi đảm bảo, sẽ có người liên lạc mang về tận nơi cho các đồng chí.
Lời Bác dạy tuy nghiêm mà chan chứa tình yêu thương cán bộ. Lại là một bài học thiết thực, quí giá, chúng tôi ghi nhớ vào lòng. Sau này, trong hồi bí mật, chúng tôi cũng thực hành như lời Bác dạy, anh chị em cán bộ đi họp về, kiên quyết không để mang tài liệu theo người, mọi chỉ thị, nghị quyết đều chuyển bằng đường dây liên lạc.
Bác giàu kinh nghiệm nên cảnh giác rất cao. Điều Bác dặn, chúng tôi được nghiệm thấy ngay là rất đúng.” [6]
* *
“…Từ làng Khum Đắc, chúng tôi trèo lên ngọn núi đằng sau làng. Lên đến gần đỉnh thì có một hốc đá to, có thể ngồi được hàng chục người. Đấy chính là lớp học của chúng tôi.
Khi chưa bước đến chân hang, từ đằng xa tôi đã thấy anh Đức Thanh và một ông già trông cao mà lại gầy, mặc bộ quần áo chàm, trông không khác gì người địa phương… Đồng chí già chính là Bác, nhưng lúc đó chúng tôi không biết mà chỉ đoán : “Đây chắc là thượng cấp rồi”
Tôi thấy trong lòng bồi hồi cảm động. Một phần vì sắp được hiểu biết nhiều điều mới mẻ, nhưng phần chính là sắp được gặp các đồng chí lãnh đạo cấp trên mà lâu nay mình chưa từng biết. Tôi lại nhớ đến câu nói của anh Đức Thanh : “Thượng cấp này quan trọng lắm”. Thế là từ lúc đó tôi cứ nhìn mãi Bác. Tôi tự hỏi : “Không biết đồng chí già này là ai ? Tên là gì ? Người ở đâu ? Là thượng cấp nhưng thượng cấp thế nào ?”. Cho đến lúc gặp, thấy Bác lên tiếng : “Chào các đồng chí”, tôi lúng túng quá không biết nói năng thế nào, sợ nói sai các đồng chí lại cười mình, hoặc cho mình khuyết điểm. Mãi sau tôi mới khẽ cất tiếng thưa : “Chào ông ké ạ !”.
- Thôi cứ gọi đồng chí là được rồi.
Bác đến bắt tay từng người. Khi đến trước mặt tôi, nhìn thấy cái đầu trọc lốc. Bác vừa cười vừa động viên :
- Cái đầu trọc đẹp quá !
Thấy Bác giản dị, thân mật, lúc này tôi đã mạnh dạn hẳn lên. Tôi báo cáo với Bác là chúng tôi vừa ở nhà tù ra cả. Chúng tôi lại lấy cả sổ tù ra đưa Bác xem. Sổ tù có ảnh, có điểm chỉ, có chữ ký của bọn mật thám và nhận thực của tên tri phủ sau mỗi lần lên trình diện nó. Bác cầm xem rất kỹ, rồi bảo chúng tôi ngồi xuống. Bác hỏi thăm tình hình sức khỏe, tình hình gia đình và công tác của từng người. Bác còn hỏi chúng tôi về tình hình bị tù ra sao, việc trình diện tri phủ thế nào ? Thế là chúng tôi lần lượt kể lại cho Bác nghe.
Trò chuyện một lúc, Bác và chúng tôi bước vào lớp học. Bác giới thiệu với chúng tôi anh Đức Thanh là trợ giáo, sẽ đi sát giúp đỡ chúng tôi hàng ngày. Còn Bác là người trực tiếp lên lớp giảng bài.
Chúng tôi ngồi cả trong hốc đá, có mấy cành cây kê làm ghế, tài liệu sách vở không có, nghe nhập tâm là chính. Ngoài ra, còn có ba cái bản đồ chúng tôi mới mang đến.
Đấy, tất cả lớp học quân chính của chúng tôi có thế. Anh Đức Thanh phổ biến chương trình của lớp học, rồi Bác bắt đầu giảng bài.
Trước hết, Bác nói về tình hình thế giới. Lúc này bọn phát xít Hít-le đã bắt đầu tiến công Liên-xô được ít hôm. Bác nói tình hình đó cho chúng tôi nghe, rồi Bác phân tích đại ý như sau :
- Hiện nay trên thế giới có phe phát xít Đức, Ý, Nhật và phe dân chủ chống phát xít. Trong phe dân chủ chống phát xít lại có dân chủ mới như Liên-xô và dân chủ cũ như Anh, Pháp, Mỹ. Dân chủ cũ và dân chủ mới có mâu thuẫn với nhau, trước đây đã có lần đánh nhau. Nhưng hiện nay đứng trước họa phát xít dân chủ mới và dân chủ cũ đồng minh với nhau, chống lại phe phát xít. Trong phe dân chủ chống phát xít, Liên-xô là chủ lực. Việt Nam ta cũng đứng ở trong phe dân chủ mới, ủng hộ Liên-xô chống lại phe phát xít.
- Bọn phát xít đang tiến công vào Liên-xô, Tổ quốc cách mạng thế giới. Chúng tuyên bố huênh hoang là tiêu diệt Liên-xô trong một thời gian ngắn. Nhưng chúng nhất định bị thất bại. Nhân dân Liên-xô trước đây cũng bị bọn tư bản nhà giàu cướp của, bóc lột hết sức cùng cực, khổ sở. Sau nhờ có đảng cộng sản do Lê-nin lãnh đạo, nhân dân Liên-xô đã đấu tranh giành được thắng lợi vĩ đại, đang xây dựng chủ nghĩa xã hội không có người bóc lột người. Đời sống của nhân dân Liên-xô ngày càng sung sướng, hạnh phúc. Bây giờ bọn phát xít muốn tiêu diệt nhân dân Liên-xô định bắt nhân dân Liên-xô quay lại cuộc đời nô lệ một lần nữa thì không thể được nữa rồi. Hồng quân Liên-xô nhất định thắng, phát xít Đức, Ý, Nhật nhất định thua.
Tôi vừa nghe Bác nói vừa tự liên hệ. Trước đây tôi cũng lơ mơ chẳng hiểu tình hình ra sao. Khi nghe tin phát xít Đức đánh Liên-xô, tôi chưa hiểu được tình hình sẽ đi đến đâu. Bây giờ nghe Bác nói, đầu óc tôi mới dần dần sáng ra, tôi đã hiểu, thế nào là bọn phát xít, phe đồng minh và nhất là vững lòng tin tưởng ở thắng lợi của Liên-xô và của cách mạng thế giới.
Trong khi giảng, Bác nói từng đoạn, có chỉ vào bản đồ, rồi dừng lại hỏi chúng tôi xem có chỗ nào không hiểu, hoặc có gì thắc mắc thì hỏi. Không phải là không dám nói, nhưng chính vì những vấn đề Bác nói đều hoàn toàn mới mẻ đối với chúng tôi. Hơn nữa, Bác lại nói giản dị, dễ hiểu nghe đến đâu hiểu đến đấy, cho nên càng không có gì thắc mắc cả.
Trong các buổi học sau, Bác tiếp tục giảng về tình hình trong nước và nhiệm vụ cách mạng. Về năm bước công tác quần chúng, Bác dạy : phải điều tra xong rồi mới tuyên truyền, làm sao cho người ta có cảm tình với mình đã, lúc đó mới tổ chức vào hội, sau đó tiến hành huấn luyện, rồi giao công tác, thường xuyên kiểm tra công tác và báo cáo.
Hôm Bác giảng về quân sự, tôi nghe lý thú lắm. Tôi còn nhớ đại ý Bác nói về chiến thuật du kích là : lấy ít đánh nhiều, dùng mưu mẹo mà đánh, nay đánh đông, mai đánh tây, làm cho địch chết dần chết mòn. Về các hình thức đánh du kích, Bác không nói tập kích, phục kích, mà nói đánh úp, đánh mai phục. Đánh úp là khi quân địch đang ở một xóm, một làng, một quán nào đó, mình giả người dân, lân la đến gần, dùng gậy đập chết nó rồi cướp súng, có thể ban đêm, cũng có thể ban ngày... Còn đánh mai phục là mình tự chọn lấy một nơi địa thế kín đáo rồi bí mật đến nấp ở đó, đợi khi nào địch đi qua thì nhanh chóng bất ngờ xông ra dùng dao, dùng gậy giết nó, cướp súng...
Bác lại nhấn mạnh : đánh úp, đánh mai phục như thế không cần nhiều người, không nên ăn to vội, mới đầu hãy chọn một vài thằng, nhằm vào lúc nó đi liên lạc hay đang giải tù, bắt phu đốc thuế rồi diệt nó lấy một hai khẩu súng, dần dần diệt ba, bốn thằng lấy ba, bốn khẩu súng và cứ như thế mà tiến lên.
Những điều Bác dạy về cách đánh du kích làm tôi nhớ mãi. Trong những thời kỳ ở Giải phóng quân cũng như sau này, tôi đã cố gắng vận dụng. Ví dụ : Lần ở Tân Trào, hồi trước Cách mạng tháng Tám 1945, tôi đang phụ trách đội bảo vệ khu vực Bác ở thì có một toán thổ phỉ mấy chục tên tràn qua. Tôi bị lên cơn sốt rét bất thần không đi được, nên anh Văn[7] trực tiếp chỉ huy trận đánh này. Bác giao nhiệm vụ : trận này không được để một tên nào thoát. Thực hiện chỉ thị của Bác, quân ta đã tiêu diệt đại bộ phận địch.
Hơn bốn mươi tên chỉ còn hai tên chạy sang phía Chợ Chu, năm tên chạy vào khu vực chúng tôi ở. Khi nghe tiếng súng nổ ran ở ngoài, tôi đã thấy nóng ruột lắm rồi. Tôi cố gắng tìm cách ngồi dậy. Tôi nhớ Bác nói nhiều lần : “Phải đấu tranh với bệnh, không thì nó lấn tới”. Tôi liền cột một đoạn dây vào xà nhà rồi nắm một đầu dây cứ nhảy lên, nhảy xuống, cho đến lúc mồ hôi toát ra như tắm. Vừa lúc đó, có anh em vào báo cáo :
- Bọn thổ phỉ chạy vào, đang ở gốc cây đa, có một tên chỉ huy.
Tôi liền bảo :
- Có mấy thằng thì cứ ra lừa mà bắt, - Rồi tôi cố gắng đi theo và nói với anh em : - Tôi sẽ ra gặp chúng, còn các đồng chí nấp kín đằng sau, khi nào tôi hô thì cứ việc mang thừng vào trói.
Tôi ung dung tiến ra gặp tên tướng thổ phỉ. Tôi đã giắt súng trong người rồi. Khi gặp nó, tôi vui vẻ bắt tay nó rồi bất thình lình rút súng ra, hô :
- Giơ tay lên ! Toàn đơn vị xung phong !
Bọn này bị tấn công bất ngờ phải đầu hàng ngay. Hầu hết bị ta bắt, còn hai tên thoát sang phía Chợ Chu cũng bị bắt nốt. Có được kết quả trên chính là do chúng tôi đã học được mưu mẹo đánh du kích của Bác.
Một điều Bác luôn luôn nhắc nhở chúng tôi là phải hết sức giữ bí mật. Bác dặn chúng tôi phải nhớ kỹ khẩu hiệu : không có, không biết, không thấy. Khi gặp người lạ hỏi gì, mình không nói không được, nhưng nói thì nói không có, không biết, không thấy. Nhiều lúc chúng tôi tò mò muốn hỏi tên Bác là gì, thân thế sự nghiệp ra sao... nhưng thấy Bác dặn như thế nên chúng tôi lại không dám hỏi. Chúng tôi chỉ bàn tán với nhau : đấy là “ ông Ké người Nghệ”. Sở dĩ chúng tôi gọi như vậy vì thấy Bác nhiều tuổi lại nói tiếng miền Trung mà chúng tôi đoán là ở Nghệ An. Nhưng còn hiểu được gì thêm về Bác nữa thì chịu. Mãi cho đến năm 1945, khi về Tân Trào làm nhiệm vụ bảo vệ Bác, tôi mới chính thức biết Bác là ai. Hôm đó Bác ở trong lán vừa đi ra ngoài. Anh Văn lên thăm Bác nhưng không gặp. Anh ngồi nói chuyện với tôi, rồi tự nhiên anh giở một quyển sách chữ Pháp ra trong đó có một ảnh to. Anh nghiêng nghiêng quyển sách cho tôi xem. Chính là ảnh của Bác, trên đầu trang sách có đề chữ Nguyễn Ái Quốc. Tôi vừa vui mừng vừa cảm động : còn anh Văn thì chỉ cười, không nói gì.
*
* *
Thấm thoát lớp học của tôi đã đến ngày bế mạc. Đêm hôm trước, năm anh em chúng tôi đều thấp thỏm không ngủ được. Chúng tôi thấy thời gian ở với Bác ngắn ngủi quá. Ai cũng mong được gần Bác, học tập thêm Bác nhiều nữa. Lại còn một điều lo là chúng tôi phải chuẩn bị để ngày mai có cuộc “thi tốt nghiệp”.
Tuy Bác không nói thi cử gì cả, nhưng chúng tôi thì cứ xì xào với nhau :
- Đúng là “thi tốt nghiệp” rồi !
Bác nói cách “thi tốt nghiệp” như sau :
- Tôi sẽ làm ông cụ già nông thôn, các đồng chí làm thanh niên đi tuyên truyền giác ngộ tôi làm cách mạng. Các đồng chí muốn làm cách nào thì tùy ý...
Đầu đề “thi” chỉ có thế thôi, lại được phổ biến trước để chuẩn bị, thế mà sao tôi thấy khó quá. Nhất là tuyên truyền cho ai, chứ cho “ông Ké thượng cấp” thì quả thực không dễ. Cả đêm tôi cứ nghĩ hết “luận án” này đến “luận án” khác. Cuối cùng mệt quá, tôi thiếp đi lúc nào không biết.
Sáng hôm sau, cuộc “thi tốt nghiệp” bắt đầu. Bác hỏi :
- Hôm nay tôi là một ông cụ già đang ngồi trong nhà chữa cày, các đồng chí vào và nói chuyện đi.
Buổi sớm, tôi đã quyết định dứt khoát là phải bình tĩnh, không hoang mang. Thế mà đến lúc này tự nhiên trong lòng lại thấy hồi hộp khác thường. Tôi lo nhỡ nói không đúng, ông Ké phê bình mà anh em thì cười... Thế là tôi cứ ấp úng mãi mới được một câu :
- Chào Bác ạ !
- Ừ được, cháu vào chơi !
Đến đây tôi lại càng lúng túng không biết nói gì thêm nữa. Thấy vậy, Bác liền “gỡ thế bí” cho tôi :
- Cháu đến có việc gì không ?
Từ đó tôi mới mạnh dạn nói. Tôi hỏi thăm tình hình gia đình, nào là :
- Bác có khỏe không ? Gia đình ta có đủ ăn hay thiếu? Có ai bị ốm yếu không ? Phu phen, thuế khóa ra sao ? v.v....
Bác vừa nghe vừa gật đầu tán thành :
- Nói như vậy là được, các đồng chí khác tiếp tục bổ sung thêm cho đầu đủ.
Chúng tôi mỗi người thêm một ý. Bác chắp lại ý của chúng tôi, cuối cùng Bác tóm tắt là : Kẻ thù hiện nay của nhân dân là bọn phát xít Nhật-Pháp, chúng bóc lột nhân dân ta thậm tệ. Vì vậy, mọi người phải đùm bọc lấy nhau làm cách mạng đánh đổ đế quốc và tay sai, có như vậy mới được ấm no, hạnh phúc.
Tóm tắt xong, Bác nhận xét cụ thể đồng chí này nói đúng chỗ nào, đồng chí kia nói sai chỗ nào. Bác khen Nam Tuấn nói đầy đủ hơn cả. Bác lại phê bình chung một điểm là “ còn dùng nhiều chữ nghĩa khó hiểu, ví dụ : chúng tôi hay nói đến chữ đoàn kết, mà thực tế chữ đoàn kết hồi đó không dễ hiểu như bây giờ, nhất là đối với đồng bào miền núi.
Bác bảo : Sao ta không dùng những câu như : Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao, hoặc đùm bọc lẫn nhau, v.v... hoặc có thể dùng những ví dụ khác như : bẻ một chiếc đũa thì dễ, nhưng bẻ cả bó đũa thì khó, v.v... Nếu nói được như vậy có phải mọi người đều dễ nghe, dễ hiểu không.
Rồi Bác lại nhấn mạnh : Đi tuyên truyền người ta không phải chỉ nói bằng mồm, còn phải bắt tay vào làm thực tế, có khi đến nhà thấy trẻ em đang ỉa cũng phải rửa đít cho chúng, hoặc lên nhà sàn phải chú ý rửa chân trước khi vào nhà, v.v...
Buổi “thi tốt nghiệp” của chúng tôi đến đây coi như kết thúc, không ai được điểm cao, cũng không ai bị điểm kém, ai cũng cảm thấy phấn khởi vì đều được Bác động viên, được Bác dạy dỗ tỉ mỉ.
Khi lớp học kết thúc, Bác giao nhiệm vụ cho Nam Tuấn, Ái Nam và Xuân Trường trở về Hà Quảng tiếp tục hoạt động. Còn tôi và đồng chí Qúy sang biên giới Trung Quốc công tác.
*
* *
Có một điều Bác không dạy mà chúng tôi ai cũng học được một cách sâu sắc : đó là đạo đức của Bác. Ngay từ những ngày đầu sống bên Bác, trong tâm trí mỗi người chúng tôi đã in sâu hình ảnh người đồng chí già mặc bộ quần áo chàm, đi đất, chống ba-toong bằng rễ cây rừng, người gầy nhưng có đôi mắt sáng, vầng trán thông minh, hiểu biết từ chuyện thế giới xa xôi đến chuyện địa phương làm ăn sản xuất, v.v...
Sau này càng gần Bác, chúng tôi càng thấy Bác sống rất mẫu mực, ngay trong những việc nhỏ hàng ngày. Bác thường dạy chúng tôi phải thương yêu đồng chí. Và Bác đã làm gương để chúng tôi noi theo.
Một lần, chúng tôi đang học, có một chị ở dưới núi mang mấy bắp ngô lên. Tôi đoán ngô này của đồng bào biếu Bác, nhưng Bác đã bảo anh Đức Thanh chia đều cho chúng tôi cùng ăn cả.
Một lần khác, đang học, mấy đứa chúng tôi đều hết thuốc lá. Tuy còn là thanh niên mà chúng tôi đã nghiện thuốc, trong đó Xuân Trường và tôi nghiện nặng hơn. Hồi này Bác cũng hút thuốc. Thuốc của Bác là thuốc “xực dín” (hay gọi là thuốc bào, loại thuốc Trung Quốc thái nhỏ tẩm dầu). Bác vừa dạy học vừa hút. Xuân Trường và tôi trông thấy thèm lắm, nhưng không dám xin. Bác trông biết ý ngay, liền hỏi :
- Ở đây có mấy đồng chí nghiện thuốc ?
Xuân Trường, Ái Nam và tôi đều giơ tay. Thế là Bác đem cả gói thuốc chia luôn cho chúng tôi.
Thấy Bác làm như thế, chúng tôi vừa phấn khởi, vừa cảm động. Tôi cứ suy nghĩ mãi : “Đồng chí thượng cấp này đặc biệt quá, có gì cũng cho bọn mình, sao lại tốt đến như vậy...”.[8]
--------
[1] Dương Đại Lâm : “Pắc Bó quê tôi’, Nhà xuất bản dân tộc Việt Bắc, 1966.
[2] Hoàng Quốc Việt, “Nhân dân ta rất anh hùng”, Nhà xuất bản Văn học, năm 1969.
[3] Bí danh của đồng chí Võ Nguyên Giáp lúc bấy giờ.
[4] Quang Trung, “Lớp học đầu tiên”, trong tập “Uống nước nhớ nguồn”, Nhà xuất bản Quân đội, năm 1973.
[5] Vũ Anh, “Từ Côn Minh đến Pắc Bó”, trong tập “Bác Hồ”, Nhà xuất bản Văn học, năm 1960.
T.Lan, “Vừa đi đường vừa kể chuyện”, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, năm 1963.
[6] Com-mi : Tham tá.
Xếp-tanh : Trưởng xe lửa.
Xít-tê : khu nhà ở của Pháp lúc bấy giờ.
Vũ Anh, “Từ Côn Minh đến Pắc Bó”, trong tập “Bác Hồ”, Nhà XB Văn học, năm 1960.
[7] T.Lan, “Vừa đi đường vừa kể chuyện”, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, năm 1963.
[8] H.Q.B, trích bài “Ở Vân Nam”, trong tập “Bác Hồ”, Nhà xuất bản Văn học, năm 1960.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận