“Đức bị đánh bại, chiến tranh chấm dứt. Vua Đức trốn sang Na Uy, và ở đấy vua làm nghề xẻ gỗ. Đảng cộng sản Bôn-sê-vích và Lê-nin đã lãnh đạo công nông Nga nổi dậy. Cách mạng tháng Mười thành công. Những đoàn đại biểu các nước bại trận đến Véc-xây họp Hội nghị hòa bình. Bên cạnh những đoàn đại biểu chính thức, có nhiều đoàn đại biểu thay mặt cho các dân tộc bị áp bức. Họ tới là vì nghe có mười bốn điểm của tổng thống Mỹ Uyn-sơn (Wilson). Có cả người Ái Nhĩ Lan, người Ấn Độ, người Triều Tiên, người Ả Rập, v.v… Họ đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó, người ta thấy có ông Nguyễn Ái Quốc (tức là anh Ba).
Ông liên lạc với các đoàn đại biểu Triều Tiên, Ái Nhĩ Lan và các đoàn khác. Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước ở Ba-lê và ở các tỉnh Pháp. Với danh nghĩa của tổ chức này, ông đã đưa ra những yêu cầu ở hội nghị Véc-xây.
Yêu cầu gồm có tám khoản. Những khoản chính là:
- Việt Nam tự trị.
- Tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí, tự do đi lại, đại xá chính trị phạm.
- Quyền lợi bình đẳng giữa người Pháp và người Việt Nam.
- Bãi bỏ việc bắt dân mua rượu, thuốc phiện, bãi bỏ thuế muối và sưu dịch.
Những yêu cầu ấy gửi đến cho các đoàn đại biểu Đồng minh và tất cả các nghị viện của Quốc hội Pháp.
Cũng nên nhắc lại là ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra nhưng là do luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ, ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp. Cũng nên nhắc lại là ông Phan Chu Trinh và ông Phan Văn Trường không tán thành hoạt động của nhóm Việt Nam yêu nước, vì các ông ấy cho nhóm thanh niên là trẻ con.
Dần dần công việc của hội nghị Véc-xây tiến lên thì 14 điểm của tổng thống Uyn-sơn cũng dần dần lu mờ không còn hình bóng gì nữa. Và nhân dân Trung Quốc cũng thất vọng chua chát. Để “giả ơn” Trung Quốc đã hợp tác trong chiến tranh, những cường quốc Âu Tây đã chia sẻ Trung Quốc và dâng Thanh Đảo cho Nhật Bản. Trước sự bất công cay đắng ấy, thanh niên Trung Quốc nổi dậy chống lại. Đoàn đại biểu Trung Quốc ở Hội nghị hòa bình bị gọi về. Một phong trào chống chủ nghĩa đế quốc lan rộng khắp Trung Quốc, một phong trào, vừa giải phóng dân tộc vừa cách mạng văn hóa. Đó là phong trào ngày 4 tháng 5 (1919).
Được những sự thật ấy rèn luyện, ông Nguyễn hiểu rằng những lời tuyên bố tự do của những nhà nước chính trị tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật, để lừa bịp các dân tộc. Và muốn được giải phóng chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình.
Những lời yêu cầu của ông Nguyễn cũng như của các đại biểu các dân tôc bị áp bức khác không có kết quả gì hết.
Nhưng không thể nói những lời yêu cầu ấy là không có tác dụng, bởi vì nó đã đánh dấu một giai đoạn mới trong phong trào giải phóng dân tộc.
Với số ít tiền kiếm được, ông Nguyễn sống rất nghèo khổ để có thể thuê in những bản yêu cầu ấy thành truyền đơn đem phát trong các cuộc mít tinh. Do đó, một số đông người Pháp đã hiểu thêm về Việt Nam.
Ông Nguyễn phát những truyền đơn ấy cho tất cả những Việt kiều và những người Việt đi lính ở Pháp. Vì vậy mà có những vụ khám xét trong các trại lính, làm cho những người lao động và lính Việt Nam trước thờ ơ với chính trị nay cũng giác ngộ.
Ông Nguyễn gửi cả những truyền đơn về Đông Dương, nhưng gửi đề tên Việt thì không đến nơi, đề tên người Pháp thì đến nơi. Bọn thực dân Pháp in truyền đơn ấy lên báo để chế giễu và yêu cầu đàn áp. Chính nhờ những tờ báo ấy mà người Việt Nam biết được toàn bản yêu cầu và từ ngày ấy phong trào cách mạng Việt Nam càng lên cao”[1].
***
“…Dạo ấy vào năm 1919, năm đầu tiên sau chiến tranh và là năm của Hội nghị hòa bình. Lúc đó tôi mới 20 tuổi. Bố mẹ tôi trước đó bắt tôi đi học Trường bảo tàng Lu-vrơ là một trường học lớn chuyên đào tạo những người khảo cổ và những người sau vào làm việc cho bảo tàng Lu-vrơ. Tôi ở với mẹ tôi ở nhà số 6 phố Đô-bi-nhi, trung tâm Pa-ri. Nhà tôi ở gác hai ăn thông sang nhà người cậu tôi ở cùng tầng gác. Cậu tôi là Giuyn Căm-bông, đại sứ của chính phủ Pháp. Cậu tôi ở hai buồng làm bàn giấy ở tầng một dưới nhà. Chiến tranh thế giới thứ nhất làm chết nhiều người. Những người thư ký giúp việc cậu tôi xong chiến tranh vẫn chưa thấy trở lại làm việc. Cậu Giuyn Căm-bông nói với mẹ tôi:
- Chắc họ không đến làm nữa đâu. Chị cho cháu Giơ-nơ-vie-e-vơ ở nhà giúp việc hộ tôi.
Thế là tôi phải xin phép nghỉ học nhiều tháng để giúp việc thư ký cho cậu tôi. Một buổi sáng, cả nhà chưa dậy, có tiếng chuông reo ngoài cửa. Tôi chạy ra mở cửa. Tôi thấy hiện ra trên ngưỡng cửa một người châu Á, đúng hơn: một người dân Đông Dương, gầy gò, đáng mến. Người đó chào tôi và nói:
- Tôi có một “bản trần tình” cần đưa cho đại sứ Căm-bông.
Tôi liền mời anh ta vào nhà và vào bàn giấy của đại sứ Căm-bông. Đây là một bản giấy rất đẹp, trang trí theo kiểu Am-pia, mà gia đình chúng tôi hiện còn giữ nguyên như hồi năm 1919. Tôi hỏi khách:
- Xin lỗi, ông cho tôi hỏi: ông là ai?
- Thưa cô, tôi là Nguyễn Ái Quốc. Tôi là thợ ảnh. Tôi muốn được gặp đại sứ Căm-bông.
Anh thanh niên Nguyễn Ái Quốc, liền cởi một cuộn giấy buộc dây đỏ và giở ra nói:
- Tôi đến đây vì tôi muốn đưa cho ngài đại sứ một “bản trần tình” của toàn thể nhân dân Đông Dương.
Tôi đọc trong tập giấy thấy có một bức thư đề gửi đại sứ Căm-bông: “Thưa đại sứ Căm-bông, đại diện toàn quyền của nước Pháp tại hội nghị Véc-xây. Tôi là người đại diện cho nhân dân Đông Dương. Chúng tôi là một dân tộc đang tiến hóa. Chúng tôi đã được hiểu biết về nền văn minh của nước Ngài…” Kèm theo là một bản yêu sách quan trọng nhờ đại sứ Căm-bông chuyển đến hội nghị hòa bình Véc-xây. Bản yêu sách đó đòi trả lại tự do cho các tù chính trị Đông Dương, bãi bỏ các tòa án đặc biệt, tự do báo chí, hội họp, đi ra nước ngoài, học tập, vân vân… Cả hai bản đó đều viết bằng tay rất đẹp và thảo bằng một lời văn rất hay.
Tôi nói với ông Nguyễn Ái Quốc:
- Ông viết hay lắm, nhưng ông cậu tôi chưa dậy vì lúc này còn sớm quá.
Ông Nguyễn Ái Quốc ăn mặc chỉnh tề nhưng quần áo hơi cũ. Ông đứng chờ cho tôi đọc xong tập giấy ông đưa rồi nói:
- Vậy thì tôi để những bản này lại và nhờ cô chuyển tận tay cho đại sứ Căm-bông.
- Vâng, ông cứ để đây. Ông để lại cho tôi cả địa chỉ của ông nữa, nếu có kết quả tôi sẽ trả lời ông rõ.
Ông Nguyễn Ái Quốc chào tôi rất lịch sự và ra về.
Khi cậu tôi dậy làm việc, tôi nói lại chuyện ông khách người Việt Nam tới. Cậu tôi bảo tôi đọc cho cậu tôi nghe “bản trần tình” của ông Nguyễn Ái Quốc. Tôi đọc xong rồi đặt lên bàn giấy của cậu tôi. Cậu tôi đọc lại một lần nữa rồi nói:
- Để rồi chuyển tài liệu này cho thủ tướng Clê-măng-xô.
Và cậu Căm-bông tôi đã đưa tài liệu của ông Nguyễn Ái Quốc cho Clê-măng-xô là người cùng cậu tôi và một số người khác đại diện nước Pháp dự hội nghị hòa bình Véc-xay. Vì sao ông Nguyễn Ái Quốc lúc đó lại tìm đến nhà cậu tôi để đưa bản yêu sách cho hội nghị Véc-xay? Vì đọc danh sách những đại diện toàn quyền của nước Pháp đị dự hội nghị Véc-xay hồi đó, người ta thấy: Thủ tướng Clê-măng-xô, nhà tài chính lớn Clốt-dơ, người chuyên trách chính sách nội trị Tác-đi-ơ, chủ tịch Thượng nghị viện Lê-ông Buốc-gioa và chỉ có một nhà ngoại giao duy nhất là cậu Giuyn Căm-bông của tôi. Giuyn Căm-bông đã từng làm đại sứ của Pháp ở Đức từ năm 1907 đến năm 1914. Có lẽ lúc đó ông Nguyễn Ái Quốc tin rằng đưa cho nhà ngoại giao thì công việc trôi chảy hơn là đưa cho những người không phải là nhà ngoại giao. Ít lâu sau cậu Căm-bông nói với tôi:
- Thật không may cho Nguyễn Ái Quốc. Ở hội nghị người ta bàn đến nhiều nước quá rồi. Hơn nữa ở hội nghị người ta xâu xé các nước thuộc địa và tranh giành ảnh hưởng của nhau trên thế giới, ai nghĩ đến số phận những nước xa xôi ở Viễn Đông. Mà Clê-măng-xô là người không tốt. Cho nên không có kết quả gì”[2]
----------
[1] Trần Dân Tiên, “Những mẩu truyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, Nhà XB Sự thật, Hà Nội, năm 1975.
[2] Giơ-nơ-vi-e-vơ Ta-bu-i, “Người khách buổi sớm” Hồng Hà ghi trong tập “Bác Hồ ở Pháp”, Nhà XB Văn học, Hà Nội, năm 1970.
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận