Truyện Hoàng Dung
  • Nam  
    • Linh dị
    • Đồng nhân
    • Trùng sinh
    • Xuyên không
    • Lịch sử
    • Quân Sự Xây Dựng
    • Khoa Huyễn
    • Dị giới
    • Dị năng
    • Huyền ảo
    • Đô thị
    • Kiếm hiệp
    • Tiên Hiệp
    • Hàn Quốc
    • Cổ Đại
    • Hiện Đại
    • Tương Lai
    • Ma Pháp
    • Game / Thể Thao
    • Tu Chân
    • Xuyên Nhanh
    • Hệ Thống
    • Hài Hước
    • Huyền Học/ Âm Dương Sư/ Phong Thuỷ ...
    • Tận Thế
    • Teen
    • Sinh Tồn
    • Võ Hiệp
    • Quan trường
    • Đam Mỹ
    • Fan fiction
    • 12 Chòm Sao
    • Tây Du
    • Sắc
    • Trinh thám
    • Hacker
    • Hắc Ám Lưu
    • Harem
    • Phiêu Lưu
    • Vô Địch Lưu
    • Xuyên Sách
    • Sủng Thú
    • Truyện Xuất Bản Thành Sách
    • Vô Hạn Lưu
    • Tài Liệu Riêng
    • Thăng cấp lưu
    • Não To
    • Truyện dịch Free
    • Thủ Thành
    • Nhật Bản
  • Nữ  
    • Trùng sinh
    • Xuyên không
    • Ngôn tình
    • Huyền ảo
    • Đô thị
    • Tiên Hiệp
    • Cổ Đại
    • Hiện Đại
    • Game / Thể Thao
    • Cung Đấu
    • Tình Cảm
    • Ngọt Sủng
    • Nữ Cường
    • Vườn Trường
    • Xuyên Nhanh
    • Bách Hợp
    • Giới Giải Trí/ Showbiz
    • Hệ Thống
    • Truyện Việt Nam
    • Tản Mạn
    • Tác Phẩm Nước Ngoài
    • Hài Hước
    • Huyền Học/ Âm Dương Sư/ Phong Thuỷ ...
    • Tận Thế
    • Thiếu Nhi
    • Ngược
    • Teen
    • Quân Nhân
    • Đoản Văn
    • Fan fiction
    • Điền Văn
    • 12 Chòm Sao
    • Mỹ Thực
    • Bác Sĩ/ Y Thuật
    • Hào Môn Thế Gia
    • Phiêu Lưu
    • Vô Địch Lưu
    • Làm Giàu
    • Xuyên Sách
    • Sủng Thú
    • Truyện Xuất Bản Thành Sách
    • Niên Đại Văn
    • Vô Hạn Lưu
    • Trạch đấu
    • Tài Liệu Riêng
    • Thăng cấp lưu
    • Não To
    • Truyện dịch Free
    • Thủ Thành
    • Nhật Bản
  • Danh Mục  
    • Tìm kiếm Truyện  
    • Truyện dịch  
    • Truyện sáng tác  
    • Bảng Xếp Hạng  
    • Truyện trả phí  
    • Truyện đề cử  
    • Truyện đã hoàn thành  
    • Truyện convert  
  • Thông báo  
    • Tuyển dụng  
  • Hướng dẫn  
    • Hướng Dẫn Sử Dụng Trang Web  
    • Hướng Dẫn Nạp Tiền  
    • Hướng Dẫn Đăng Truyện  
  • Facebook
  • Đăng nhập | Đăng ký

Đăng ký


A PHP Error was encountered

Severity: Notice

Message: Undefined variable: captcha_image

Filename: inc/menu.php

Line Number: 130

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập ngay

Đăng nhập

Quên mật khẩu

Bạn chưa có tài khoản? Đăng ký ngay

Quên mật khẩu

loading
Chúng tôi đã gửi mật khẩu mới về email của bạn

Bạn chưa có tài khoản? Đăng ký ngay

  1. Trang Chủ
  2. Lịch sử
  3. Đường Bác Hồ Đi Cứu Nước
  4. Chương 9: Lập hội liên hiệp thuộc địa, Ra tờ báo “Người cùng khổ”

Đường Bác Hồ Đi Cứu Nước

  • 679 lượt xem
  • 5200 chữ
  • 2020-12-25 09:09:53

Bấm trên máy tính để sang chương tiếp theo và bấm để quay lại chương trước

Cấu hình

Cấu hình sẽ lưu lại trên thiết bị của bạn.

“…Trong những buổi mít tinh, trong những buổi đi thăm hoặc du lịch, ông đã gặp những người cách mạng An-giê-ri, Tuy-ni-di, Ma-rốc, Man-gat, v,v… Cùng với họ, ông tổ chức “Hội Liên hiệp thuộc địa ở Ba-lê”. Mục đích của Hội này là giải phóng những dân tộc thuộc địa. Hoạt động của hội là tuyên truyền. Họ tổ chức những buổi nói chuyện, những người dân các thuộc địa và những người Pháp có cảm tình đều đến dự. Cũng nên nhắc lại là người cảm tình đông hơn người thuộc đia. Những người này phần lớn là công chức hoặc công nhân, họ bị cảnh sát Pháp dọa đuổi ra khỏi nước Pháp nếu họ tiếp tục tham gia các cuộc hội họp.

Nhiều người Pháp hết sức căm phẫn biết được những chuyện xảy ra ở các thuộc địa: rượu, thuốc phiện, hối lộ, khủng bố… Thường thường họ kêu lên: “Ô! Nhục nhã biết bao! Ô! Thật không tưởng tượng được! Tội ác thực dân tày trời!”.

Để mở rộng việc tuyên truyền đến các thuộc địa, ông Nguyễn và những đồng chí của ông đã ra tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria) do ông làm chủ bút, kiêm chủ nhiệm.

Những người yêu nước Man-gat, An-giê-gi, Mac-ti-nich là những luật sư, thầy thuốc, nhà buôn hoặc sinh viên. Họ có công việc và gia đình họ. Họ không thể để nhiều thì giờ cho tờ báo. Mỗi người chỉ có thể góp một số tiền nhỏ và một bài báo tuần. Ông Nguyễn được mọi người đề cử ra làm cho tờ báo chạy. Vì vậy ông Nguyễn kiêm cả viết, chủ nhiệm, chủ bút, chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc.

Lúc đầu ông Nguyễn gửi bán tại những cửa hàng nhỏ. Nhưng bán không chạy lắm, vì ở Pa-ri có vô số báo, người ta không thể đọc tất cả và mua tất cả. Vì vậy, ông Nguyễn tìm ra một cách mà người Pa-ri gọi là “Lối D”. Ông đến trong những cuộc mít tinh dân chúng. Ông phát báo, leo lên diễn đàn và nói : "Các bạn thân mến! Báo “Người cùng khổ” phát không, nhưng tôi hết sức cảm ơn các bạn vui lòng quyên giúp ít nhiều để giúp chúng tôi trả tiền in. Một xu, một quan nhiều ít cũng tốt”.

Những người Pháp, nhất là hạng nghèo và hạng trung thường có lòng rộng rãi. Và luôn luôn ông Nguyễn có thể thu đủ tiền để trả những khoản phí tổn về báo và đôi khi còn có dư nữa. Việc xuất bản tở “Người cùng khổ” là một vố đánh vào bọn thực dân. Lập tức có nhiều lệnh cấm không cho tờ báo đó vào các thuộc địa.

Nhưng ông Nguyễn không chịu thua. Ông nhờ những thủy thủ có cảm tình chuyền báo đi các thuộc địa. Và dùng nhiều cách bí mật khác.

Những người lao động Việt Nam ở Pa-ri và ở các tỉnh mặc dầu số lớn không biết đọc, cũng bí mật gửi tiền quyên cho báo.

Phần lớn những sinh viên Việt Nam ở Pa-ri sợ tờ “Người cùng khổ” và ông Nguyễn, như người ta sợ thú rừng, không phải vì họ ghét – nhiều người thầm lén đọc báo “Người cùng khổ” – nhưng vì họ sợ liên lụy. Từ ngày có những yêu sách Việt Nam, rồi đến việc thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, rồi đến việc xuất bản tờ “Người cùng khổ” các sinh viên thuộc địa bị kiểm soát nghiêm ngặt.

Một hôm, một người con trai của Bùi Quang Chiêu đến tòa báo, đặt lên bàn 5 quan, và nói: “quyên cho báo” rồi chạy biến ngay như bị ma đuổi.

Cố nhiên, ở các thuộc địa, nhất là Đông Dương, ai đọc báo “Người cùng khổ” đều bị bắt. Mặc dầu tất cả những sự khó khăn ấy, tờ báo vẫn tiếp tục phát triển. Đó là một luồng gió mới thổi đến nhân dân các nước bị áp bức…”[4]

“Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Chính phủ Pháp ra sức bóc lột, đàn áp nhân dân thuộc địa và đầy họ đi làm bia đỡ đạn trên chiến trường châu Âu. Những người dân thuộc địa đi lính cho Pháp hồi đó bị đưa đi đánh quân Đức và phải chịu nhiều khổ cực. Chiến tranh kết thúc, nhân dân các thuộc địa Pháp được giác ngộ hơn và nhiều phong trào chống thức dân Pháp đã diễn ra khắp nơi. Trong hoàn cảnh đó, những người dân thuộc địa cư trú ở Pháp đã tập hợp lại và tổ chức ra “Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa”. Hội này thu hút những người Ma-đa-gát-ca, Đa-hô-mây, Sê-nê-gan, Ghi-nê, Ăng-ti, Goa-đơ-lúp, Mác-ti-ních, Ha-i-ti, An-giê-ri, Đông Dương…

Và tôi đã gặp anh Nguyễn Ái Quốc trong buổi thành lập Hội đó. Đấy là vào năm 1922 ở Pa-ri. Tôi nhớ rõ lần đầu tiền quen biết anh trong buổi họp của Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, tôi thấy anh người gầy gò, mảnh khảnh với giọng nói nhỏ nhẹ. Anh tự giới thiệu là người Việt Nam, làm nghề thợ ảnh, đã đến ở Pa-ri trước tôi ba năm, hiện ngụ ở ngõ Công-poanh. Anh nói tiếng Pháp thạo và tiếp xúc với anh tôi thấy ngay là một người đáng mến.

Trụ sở Hội của chúng tôi hồi đó ở số nhà 3 phố Mác-sê đê Pa-tri-ác-sơ. Đây là một cửa hàng nhỏ bé, cũ kỹ, có hai gian, một gian nhìn ra phố và một gian ở phía sau. Hội nghị của Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa hội họp ở trong nhà đó. Tất cả có khoảng gần 100 hội viên. Đứng đầu hội là ông Mon-néc-vin, người đảo Ăng-ti, giữ chức Tổng thư ký Hội, về sau tôi gánh trách nhiệm đó một thời gian. Tôi là người Goa-đơ-lúp. Hội không tổ chức thành nhóm, tổ haychi bộ mà chỉ có hội họp chung. Đi vào trụ sở Hội, người ta qua cửa ngách bên cạnh cửa hàng. Nhưng mỗi lần có cuộc họp bao giờ chúng tôi cũng thấy cảnh sát đứng canh gác ở phía ngoài cửa trụ sở của chúng tôi và bọn mật thám Pháp đứng điểm mặt. Chúng tôi hoạt động như thế cũng không phải dễ dàng và luôn luôn có sự uy hiếp.

Tôi gặp anh Nguyễn luôn trong các buổi họp của Hội. Có khi họp ở trụ sở hội, có khi chúng tôi tổ chức mít-tinh ở phòng họp của Hộ phổ biến kiến thức và phòng họp của Nhà công đoàn ở phố Ô-gút Blăng-ki. Anh Nguyễn đi họp và đi dự các buổi mít-tinh của Hội rất đều. Anh nghèo nhưng ăn mặc chỉnh tề. Hoạt động với anh tôi thấy anh là một người hăng hái đấu tranh cho việc giải phóng các dân tộc thuộc địa, không riêng dân tộc Việt Nam của anh mà tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Anh có lòng tin mãnh liệt ở thắng lợi cuối cùng và anh cho rằng muốn giải phóng dân tộc phải làm cách mạng, không có con đường nào khác. Tôi có cảm tưởng : ở anh ý nghĩ đấu tranh giải phóng dân tộc luôn luôn khắc sâu trong tâm trí anh và quán triệt suốt cuộc đời anh. Một lần nghe tin thực dân Pháp khủng bố tàn sát nhân dân ở Đa-hô-mây, tôi thấy anh căm phẫn, xúc động, đau đơn như chính việc đó xảy ra đối với nhân dân Việt Nam của anh. Anh là một con người đầy tình nhân đạo và tinh thần quốc tế. Không bao giờ thấy ở anh một nét nhỏ nào của sự ích kỷ. Và cùng hoạt động chúng tôi càng yêu thương nhau, càng thấy dân tộc thuộc địa phải đoàn kết với nhau chống kẻ thù chung. Anh đã trở thành bạn thân và tin cậy của tôi.

Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa sống bằng tiền đóng góp của hội viên. Mỗi hội viên đóng cho Hội mỗi tháng ba phrăng Pháp, ngoài ra có những người hảo tâm ửng hộ tiền cho Hội. Một hôm chúng tôi, trong đó có anh Nguyễn Ái Quốc, nảy ra ý kiến táo bạo nhưng cũng đẻ ra nhiều vấn đề khó khăn cần giải quyết. Sau chúng tôi quyết định cứ ra báo. Chúng tôi thảo luận, đặt cho báo một cái tên: “Người cùng khổ”*. Đấy là bước phát triển mới của Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa.

Chúng tôi phải thu xếp rất nhiều việc để ra được tờ báo. Tôi lúc đó làm nghề trạng sư ở Pa-ri, tôi hiểu pháp luật Nhà nước Pháp, cho nên anh em cử tôi làm giấy tờ xin phép ra báo. Tôi phải đến tòa án và các bàn giấy của Pháp để làm mọi thủ tục cần thiết và cuối cùng thì xin được phép ra báo “Người cùng khổ”. Hội không có nhiều tiền để ra báo. Chúng tôi giao ước với nhau khi nào có tiền thì ra báo, cứ đủ tiền thì ra, có khi nửa tháng một kỳ có khi một tháng một kỳ không nhất thiết phải ra đều kỳ. Nghĩa là báo chúng tôi không có ngân sách riêng. Chúng tôi tìm được chỗ in báo. Đấy là một nhà in tư nhỏ bé ở phố Croát-xăng. Và sung sướng biết bao, tờ báo của chúng tôi đã ra đời. Đấy là một tờ báo khổ to, tên báo bằng chữ Pháp đặt ở giữa, tên báo bằng chữ Ả-rập đặt bên trái và bên phải là tên báo bằng chữ Hán do anh Nguyễn viết. Giá báo là 25 xu một số. Địa chỉ lúc đầu của báo là nhà số 16 đường Giắc Can-lô, sau đổi về số nhà 3 phố Mác-sê đê Pa-tri-ác-sơ, nơi đóng trụ sở của Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa.

Cách làm việc của tòa soạn báo “Người cùng khổ” rất tập thể. Chúng tôi không có ban biên tập làm việc thường xuyên vì mọi người chúng tôi đều phải sinh sống hàng ngay hoặc bận hoạt động nhiều việc khác. Mỗi kỳ ra báo, mỗi người đem bài viết của mình đến. Chúng tôi họp nhau lại, đọc chung, rồi bàn nội dung cho số sau. Sau khi đã chọn bài một cách tập thể, chúng tôi phân công người chịu trách nhiệm sắp xếp lại và lo việc xuất bản, đem bài đi nhà in chẳng hạn. Nhiều lần anh Nguyễn Ái Quốc được cử phụ trách chữa bài vở và xuất bản nhiều số báo. Anh tốt và có tinh thần tương trợ, cho nên có những lần đến lượt chúng tôi phải đi trong nom việc ra báo, nhưng thấy chúng tôi bận việc hoặc mắc chuyện gia đình, anh Nguyễn đã xung phong đi làm thay cho chúng tôi. Đấy là một người bạn tốt, dịu dàng, đáng mến, lo xa, yêu thương đồng đội, chịu khó giúp đỡ người khác.

Báo “Người cùng khổ” xuất bản từ năm 1922 đến năm 1924, tất cả được 38 số. Anh Nguyễn Ái Quốc đã đóng góp rất nhiều cho tờ báo. Anh viết khỏe, có số viết tới hai, ba bài. Toàn bộ những bài báo của anh là Bản án chủ nghĩa thực dân Pháp và là nguyện vọng giành độc lập tự do cho nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước thuộc địa. Lời văn anh sắc bén, tư tưởng anh rõ ràng và mạnh mẽ: đấu tranh đến cùng chống chủ nghĩa thực dân Pháp. Ở nhiều số, không những anh viết bài mà anh còn vẽ tranh châm biếm nữa để đả kích chế độ thực dân. Tất cả những bài và tranh ký tên Nguyễn Ái Quốc trên báo “Người cùng khổ” mang một màu sắc đặc biệt: đó là tinh thần đấu tranh cách mạng triệt để và quyết tâm chống chủ nghĩa thực dân. Xem và đọc những và tranh đó người ta thấy rõ tác giả có một tinh thần tiến công rất chủ động và rất thông minh.

Dạo ấy, anh Nguyễn là người không có gia đình. Còn tôi thì đã lập gia đình. Tôi lúc đó có bàn giấy trạng sư ở số nhà 10b, phố Po Roay-an, Pa-ri, và cả gia đình tôi ở đấy. Anh Nguyễn thường lại chơi thăm gia đình tôi. Chúng tôi coi anh như người thân trong nhà và nhiều lần giữ anh lại ăn cơm. Anh giản dị, tự nhiên, vui tính. Anh gọi vợ tôi: “Bà chị của tôi”. Anh gọi con gái tôi, E-li-an, là: “cháu”. Anh ăn uống ít và tôi có cảm tưởng anh là một người không đòi hỏi gì nhiều trong sinh hoạt. Một hôm anh đưa đến nhà tặng gia đình tôi một cái chiêng bằng đồng đường kính chừng 50 xăng-ti-mét và một lư hương cũng bằng đồng. Những vật kỷ niệm quý giá đó tôi để ở nhà. Nhưng năm 1927 tôi về Goa-đơ-lúp, mười ba năm sau mới trở sang Pa-ri thì những vật đó đã mất. Tôi rất tiếc. Cả nhà tôi đều hết sức quý mên anh Nguyễn. Duy có điều chúng tôi không bao giờ thấy anh nói chuyện về gia đình, làng mạc quê hương của anh. Chúng tôi cũng tránh hỏi vì biết anh là một người hoạt động cách mạng, đời sống luôn luôn bị uy hiếp, có thể bị bắt bớ bất cứ lúc nào.

Bỗng một hôm, vào năm 1923, anh Nguyễn đến nhà chúng tôi và nói bằng một giọng lưu luyến:

- Hôm nay tôi đến chào anh chị. Tôi sẽ đi xa một thời gian và không có dịp được gặp anh chị nữa. Xin chào anh chị và cháu ở lại mạnh khỏe và anh cho tôi gửi lời chào các đồng chí trong Hội liên hiệp…”[5]

“…Tháng bảy năm 1922, tôi vừa đi Nam Mỹ về, thì gặp một đồng chí người Pháp phụ trách công đoàn đưa cho xem mấy tờ báo “Người cùng khổ” do ông Nguyễn Ái Quốc làm. Tôi đọc mê man, ngốn ngấu, người rần rật như có lửa đốt bên trong. Đọc xong liền vùng chạy đi tìm anh em mình đọc nghe chung. Cả lũ chúng tôi ai cũng ứa hai hàng nước mắt. Những bài báo ngắn gọn sao lại có thể khuấy động tâm hồn, tâm hồn của người mất nước, của người lao động khổ bị áp bức, bóc lột đến như thế. Những bài báo đọc lên thúc người ta hành động. Nhưng chúng tôi không hiểu nên hành động như thế nào. Chợt nảy ra ý đi tìm ông Nguyễn Ái Quốc. Anh em bàn nhau rồi cử tôi đi. Trước đây, riêng tôi đã định đi tìm ông Nguyễn nhưng không hiểu địa chỉ, cứ sợ về Pa-ri như chim chích vào rừng. Làm này anh em cứ đi, lại nắm chắc lấy tờ báo “Người cùng khổ” tôi hăng lắm, không sợ gì cả, hăm hở lên đường ngay. Hình như ở Pa-ri, ông Nguyễn Ái Quốc đã biết chúng tôi sẽ đến tìm và có ông thì chẳng ngại cái gì nữa.

Ngồi xe lửa đi. Mười một giờ trưa tới Pa-ri. Ở ga xuống, gặp bất kỳ ai là người da vàng tôi cũng chìa địa chỉ tờ bào “Người cùng khổ” ra hỏi đường. Tôi nghĩ người da vàng là người thuộc địa, người thuộc địa ở Pa-ri không ít thì nhiều cũng biết báo “Người cùng khổ”. Quả nhiên, nhiều người chỉ đường cho tôi. Tôi lần đến đường Mác-sê đê Pa-tơ-ri-ác-sơ (Marché des Patriarches) ở quận 6. Phố này cổ. Tòa báo “Người cùng khổ” ở phố này, trước cái chợ bán các thứ nhì nhằng. Ngoài cửa tòa báo có một hòm thư dán cái đầu đề nho nhỏ của tờ báo. Tòa báo ở tầng dưới cùng, chỉ có hai gian vừa phải. Hai người Bắc Phi đang hí húi làm việc, xé phong bì, viết lách, dập xóa.

Hai người niềm nở mời tôi ngồi chờ rồi tiếp tục làm việc. Tôi nghe thỉnh thoảng họ lại hỏi nhau bằng tiếng Pháp:” Cái này đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã xem chưa?”. “Cái này đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã duyệt rồi?”… Xem ý rất kính đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Ngồi đợi, tôi đưa mắt nhìn tòa báo. Một cái bàn gỗ dài, mộc mạc, trên mặt bày la liệt từng chồng báo các cứ tiếng: Anh, Pháp, Đức… Mấy cái ghế. Và một bản đồ thế giới khổ lớn treo trên trường. Tôi nhẹ nhàng đi lại gần xem. Ở chỗ Việt Nam, vết tay người và nét bút chì đã làm cho màu xỉn và bóng lại. Có người thường xuyên đứng suy nghĩ về dải đất này đây? Bất giác tôi cũng đứng lặng một Chờ mãi, chờ mãi. Đến năm giờ chiều, hai người Bắc Phi báo cho tôi biết hôm nay đồng chí Nguyễn Ái Quốc không đến tòa báo và cho tôi địa chỉ của đồng chí ở phố Gô-bơ-lanh (Rue de Gobelins) quận 13, cách tòa báo khoảng hơn một cây số. Gô-bơ-lanh có nghĩa là tấm thảm. Phố này thời xưa có lẽ dệt thảm. Bây giờ thì những người bình thường ở. Tôi đến phố Gô-bơ-lanh, tìm tới nhà số 6, leo lên tầng hai. Tôi hồi hộp lắm. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc là người như thế nào và đồng chí sẽ đối xử với tôi ra sao? Tôi giơ tay giõ cửa. Có tiếng giầy lại gần và cửa mở. Một người trạc ba mươi, ba mươi hai gì đó, cao gầy, trắng trẻo đứng trước mặt tôi tươi cười:

- Anh tìm ai? (Lúc ấy tôi còn trẻ lắm, chưa hai mươi).

- Tôi tìm… ông Nguyễn Ái Quốc!

- Tôi đây! Mời anh vào!

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang đứng trước mặt tôi, đang tươi cười thân mật mở rộng cửa mời tôi vào đây ạ! Tôi nhớ lúc ấy tôi đứng sững lại giây lát, để nhìn kỹ thêm đồng chí Nguyễn Ái Quốc xem người ra mở cửa lúc chưa tự giới thiệu và người bây giờ vẫn là một hay là hai. Vẫn là một, vẫn dáng người cao, dong dỏng gầy trong bộ quần áo dạ đen cũ và đặc biệt đôi mắt, đôi mắt to, sáng lạ lùng ấy. Tôi theo đồng chí Nguyễn Ái Quốc vào nhà, thoải mái tự nhiên ngay, không rụt rè nữa. Ở góc buồng kê một cái bàn. Rất nhiều sách, báo, tạp chí. Cạnh đó là một cái giường sắt và một cái tủ đứng nho nhỏ. Vẻn vẹn có thể. Nhưng căn buồng sạch sẽ, sáng sủa, thân mật khác thường.

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc hỏi, quê tôi ở đâu, đến có việc gì…, tàu biển bao lâu đi một chuyến, có vất vả không, sinh hoạt thế nào. Lúc ấy, tôi mới biết đồng chí trước cũng là công nhân làm tàu. Thảo nào nói đúng tiếng trong nghề của mình. Đồng chí đi đã lắm, phần lớn những nơi tôi tới đồng chí đều thông tỏ cả. Đồng chí không giới thiệu ra đâu những nghe cách hỏi thăm cái phố, cái sá, là đủ rõ. Đặc biệt đồng chí rất để ý đến đời sống của nhân dân các nước ấy. Rồi chúng tôi nói sang chuyện đất nước. Biết tôi ra đi ở Sài Gòn, đồng chí hỏi tôi rất lâu về Sài Gòn, chợ bến Thành, bến tàu, anh em khuân vác, xe thồ mộ,… Đôi mắt trầm ngâm, đồng chí hỏi tôi tỉ mỉ từng cái nhỏ và nghe chăm chú. Chuyện trò thân mật, thời gian đi nhanh quá, một loáng đã chín giờ tối. Tôi phải cáo từ ra về. Đồng chí hẹn tôi tháng sau, chủ nhật, đến nữa.

Tôi về nhà trọ nằm nghĩ mãi. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc tiếng tăm như thế mà giản dị, khiêm tốn, thân mật vô cùng. Gặp đồng chí, tôi cũng thêm kính phục và cảm động. Những người đi biển chúng tôi rất quí người chỉ huy giỏi và hiểu giá trị người chỉ huy giỏi. Gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tôi thấy tin đồng chí một cách đặc biệt, như chưa bao giờ tôi tin ai như thế. Với đồng chí Nguyễn Ái Quốc thì vào giông và bão cũng không ngại. Đồng chí có sức hấp dẫn lạ thường. Ai đã gặp đồng chí là cứ muốn gặp mãi. Muốn được ở bên đồng chí mãi.

Tám giờ sáng hôm sau tôi lại đến. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chờ tôi, vẫn bộ quần áo dạ đen xuềnh xoàng hôm qua để dắt tôi đi chơi Pa-ri. Chúng tôi ra phố, đi vòng vèo qua rất nhiều đường, qua cái phố Mông-giờ (Monges) dài lắm, chúng tôi kéo bộ miết. Tôi để ý thấy đôi giầy của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã cũ, là loạt đế rất cao, có cổ để đi bộ lâu mòn, lâu hỏng. Vừa đi vừa nói chuyện, độ gần một giờ sau, đồng chí dắt tôi vào phòng triển lãm hội họa. Thú thật lúc đó còn trẻ tôi không hiểu hội họa nên cũng không thích lắm. Nhưng đi với đồng chí Nguyễn Ái Quốc là thú rồi. Phòng triển lãm bày đến mấy trăm bức kỳ họa và rất đông người xem. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc quen nhiều lắm. Luôn luôn thấy có người lại bắt tay và gật đầu chào đồng chí. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc xem tranh rất lâu, rất kỹ, ngắm từng bức với bình phẩm với các bạn Pháp lúc đó cùng xem với đồng chí. Những lời bình phẩm tỏ ra đồng chí rất hiểu văn hóa Pháp, rất sành nghệ thuật. Các bạn Pháp gật gù rồi trao đổi ý kiến với đồng chí. Tôi đứng nghe, thấy hay, cũng đâm ra chú ý ngắm tranh hơn. Tôi nhớ có bức tranh của đồng chí Vay-ăng Cu-tuy-ri-ê, đồng chí Nguyễn Ái Quốc xem đi xem lại mãi. Mấy năm sau này, tôi về Pa-ri làm thợ in ở xưởng của lão tư bản Đăng-gông, xưởng này in cho báo “Nhân đạo” và báo “Việt Nam hồn”, tôi vẫn thường gặp đồng chí Cu-tuy-ri-ê. Thật là một người tri thức. Hiểu rộng, khiêm tốn, vui vẻ, hết sức quan tâm đến các nước thuộc địa. Lúc ấy tôi mới biết đồng chí Nguyễn Ái Quốc và đồng chí Cu-tuy-ri-ê là bạn thân của nhau. Xem hai tiếng đồng hồ, đến mười một giờ trưa. Điện Păng-tê-ông ở ngay trước phòng triển lãm. Chúng tôi tạt vào một lát rồi ra. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đưa tôi đến phố Đê-Các-mơ (Des Carmes) vào một hiệu ăn của một người Hoa kiều gọi cơm. Bữa ấy có nước nắm và thịt bò xào với giá. Lâu ngày mới ăn món quê hương, ngon quá. Ăn xong lại kéo bộ về.

Đến nhà, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trải chiếu xuống sàn, lấy sách báo sắp làm hai cái gối rồi cùng tôi nằm nghỉ trưa. Tôi được hiểu rõ về công việc làm ăn của đồng chí. Sáng thì đồng chí đi vẽ khoán cho một xưởng truyền thần, có vẽ mới có tiền, do đó đời sống của đồng chí tàm tạm thôi, có phần còn gieo neo hơn cả chúng tôi là những công nhân có lương tháng đàng hoàng. Nhưng đồng chí vẫn để dành tiền để in sách và đưa vào báo “Người cùng khổ”. Chiều thì đồng chí làm việc ở tòa báo, viết bài, sửa bài. Đồng chí còn viết cho nhiều báo và tạp chí khác như “Nhân đạo”, “Đời sống công nhân…”. Nhân viên tòa báo đều là những người thuộc địa hoạt động cách mạng đến làm thêm sau giờ làm việc của mình. Hèn nào tôi chẳng thấy tòa báo có người gác cổng và người đánh máy. Tối thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc đi dự các cuộc nói chuyện có tranh luận về các vấn đề triết học, kinh tế, chính trị, xã hội, văn nghệ… ở các câu lạc bộ hoặc đến thư viện quốc gia đọc sách. Ngoài ra, còn đi họp ở chi bộ đường phố của Đảng cộng sản Pháp. Bận như thế nhưng chủ nhật nào đồng chí cũng đi dạo chơi và xem triển lãm hội họa và bảo tàng Lu-vơ-rơ. Đồng chí rất thuộc Pa-ri, nhất là rất thông thạo khu ngoại ô, nơi nhà máy và công nhân ở. Vùng ngoại ô này liên kết lại thành một vòng, người Pháp gọi là “vòng đai đỏ”, vì ở đó chịu ảnh hưởng của Đảng cộng sản Pháp. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc thường hoạt động, đi lại tiếp xúc với công nhân ở đây.

Khoảng gần chiều, tôi cần ra tầu về Lơ Ha-vơ-rơ. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc căn dặn tôi rất nhiều, tôi nhớ nhất và thầm thía nhất câu: “Cần luôn luôn nhớ làm nhiệm vụ của người dần mất nước. Anh em nên thương yêu nhau, vui vẻ, đoàn kết với nhau. Đoàn kết với công nhân Pháp, nhân dân Pháp và các nước thuộc địa. Chúng ta đều là những người nghèo khổ bị áp bức, bóc lột như nhau…”

Về Lơ Ha-vơ-rơ, anh em xúm lại hỏi. Tôi nhất nhất kể lại hết, không sót cái gì. Anh em phấn khởi lắm. Từ đó theo lời đồng chí Nguyễn Ái Quốc, anh em bí mật chuyền báo về nước, về đến những nơi có Việt kiều ở, như Tân Đảo, đảo Rê-uy-ni-ông,v.v… Anh em quyên tiền ủng hộ báo “Người cùng khổ” và mua báo “Người cùng khổ”, “Nhân đạo”, tạp chí “Bôn-sơ-vích”, đưa hàng trăm tờ về nước. Có lần đi Mác-ti-ních, tôi đưa cả ba anh người Mác-ti-ních trốn mật thám lậu vé về nước. Cái gì chứ cái món bí mật chuyền báo, đưa người, anh em thủy thủ chúng tôi làm dễ thôi.

Năm 1923, tháng tư, tàu của tôi lại cập bến Lơ Ha-vơ-rơ. Tôi lại nhảy về Pa-ri tìm đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Sau lần gặp đầu, đi biển cứ nhớ hoài. Lúc bấy giờ, phong trào công nhân Pháp vẫn sôi nổi, vẫn tiếp tục làn sóng từ 1919, 1920. Vùng Lơ Ha-vơ-rơ có hàng vạn công nhân bãi công hàng tháng và có xung đột đổ máu với cảnh sát. Ở nước ta, đế quốc Pháp đang đẩy mạnh bóc lột, bần cùng hóa nhân dân ta. Nạn vỡ đê và đói xảy ra liên tiếp. Đồng bào đói rách, phá sản phải bán mình cho chúng nó. Đi phu cao su ở Nam Kỳ và Tân Thế Giới. Trong khi đó, tàu của nó cứ kìn kìn hết chuyến này đến chuyến khác chở gạo của ta sang Pháp. Chúng tôi thấy thế xót ruột, xót gan. Người mình chết đói, gạo mình nó nẫng đi. Chúng tôi đinh ninh phải nói các cái đó với đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Nói với đồng chí mới hả.

Tôi đến phố Gô-bơ-lanh nhưng đồng chí Nguyễn Ái Quốc không có nhà. Tôi chạy ra tòa báo. Đồng chí đang nói chuyện với một người da đen lạ mặt. Thấy tôi đồng chí tươi cười bắt tay và giới thiệu với tôi đồng chí Xai-go (Seigho) người Tây Phi đang nói chuyện với đồng chí. Câu đầu tiên tôi nói là báo cho đồng chí biết rằng báo “Người cùng khổ” vẫn được anh em chuyển nhiều và đều đặn về. Đồng chí nghe thấy thế vui mừng lộ rõ trên mặt. Đồng chí dặn “cố gắng làm cho anh em quyết tâm hơn nữa”. Rồi đồng chí dẫn tôi về nhà, hỏi thăm sức khỏe của tôi và anh em làm tàu ở Lơ Ha-vơ-rơ và lọi hỏi thăm tình hình các nơi chúng tôi mới đi qua và tình hình trong nước. Thái độ ân cần tha thiết như một người anh cả. Lúc nghe kể chuyện tàu Pháp chở gạo sang mà dân ta chết đói, đồng chí ngồi lặng một lúc không nói.

Lần này tôi mới biết bên cạnh buồng đồng chí Nguyễn Ái Quốc là buồng ông luật sư Phan Văn Trường. Đâu ông Trường nhượng đồng chí Nguyễn Ái Quốc thuê lại căn buồng này. Ông Trường là một nhà trí thức yêu nước, cũng muốn tìm hiểu chủ nghĩa cộng sản nhưng ông thiên về sách vở, khác với đồng chí Nguyễn Ái Quốc là một nhà lý luận đồng thời là một người hoạt động thực tiễn đi sâu vào anh em lao động. Tôi có dịp gặp ông Trường. Ông ta rất khâm phục đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Ông nói với tôi: “An-be Xa-rô, nguyên toàn quyền Đông Dương, một hôm gọi anh Nguyễn Ái Quốc đến. Nó giơ bàn tay rồi nghiến chặt răng riết chặt lại xoay một vồng ra ý bóp nát và bảo anh “Nước Pháp có đủ sức mạnh trừng trị những kẻ chống đối”. Mặc nó dọa, anh Nguyễn Ái Quốc vẫn hoạt động, vẫn chống lại. Nó bèn quay sang mua chuộc vuốt ve anh thì anh độp vào mặt nó: “Tôi không cần “ơn huệ”, tôi tự đi làm cũng đủ sống; tôi không cần gì hết, tôi chỉ đòi độc lập cho dân tộc Việt Nam”. An-be Xa-rô, cái tên thét ra lửa ấy, bị bẽ mặt, ức lắm, nhưng phải chịu. Bên cạnh đồng chí Nguyễn Ái Quốc là nhân dân các nước thuộc địa, nhất là nhân dân Pháp và Đảng cộng sản Pháp, nó dám đụng vào đồng chí Nguyễn Ái Quốc à?

Tàu đi biển luôn, một dạo tôi chưa đến Pa-ri, thì thỉnh thoảng viết thư đến đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Một lần tôi viết thư hỏi đồng chí: “Tôi đọc sách thấy hay nói ông Mác, tôi chưa hiểu, xin giải thích cho tôi biết”. Tôi nhận được ngay thơ trả lời, không những nó rõ cho Mác là ai mà còn giải thích tỷ mỉ chủ nghĩa Mác và khuyên tôi chịu khó xem. Từ đó tôi đọc sách Mác. Chữ gì không hiểu thì mò từ điển. Vẫn chưa hiểu thì viết thư hỏi đồng chí Nguyễn Ái Quốc.

Tháng 6 năm 1924 Đảng cộng sản Pháp giới thiệu đồng chí Nguyễn Ái Quốc ra ứng cử tại Hạ nghị viện Pháp cùng các nhà lãnh tụ của đảng Ca-sanh, Cu-tuy-ri-ê. Báo chí đăng danh sách ứng cử ấy, các đầu phố có dán danh sách ấy. Chúng tôi đọc thấy sướng lắm, cứ đến ngã ba có dán danh sách ứng cử của đảng cộng sản là y rằng đứng lại xem. Đọc thấy tên Nguyễn Ái Quốc mà tưởng như đọc thấy tên vô sản ta, nhân dân ta; thấy tên Việt Nam trên bảng danh sách. Đưa đồng chí Nguyễn Ái Quốc ra ứng cử, Đảng cộng sản cốt nói rằng giai cấp công nhân Pháp đoàn kết với giai cấp công nhân ở thuộc địa đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản. Vào quốc hội tư bản là lợi dụng chỗ để vạch mặt chúng chứ không phải mục đích. Lần ấy Đảng cộng sản ra sức tranh cử độc lập lần đầu và được những một triệu hai mươi vạn phiếu trong số năm triệu phiếu. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc không phải là người Pháp tất nhiên không thể vào Quốc hội Pháp” [6].

------

[4] Trần Dân Tiên, “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1975.

* tờ báo này do Bác làm chủ bút kiêm chủ nhiệm.

[5] Luật sư Mác Clanh-vin Blông-cua, “Người bạn tốt của các dân tộc thuộc địa” – Hồng Hà ghi trong tập “Bác Hồ ở Pháp”, nhà xuất bản Văn học, năm 1970.

[6] Bùi Lâm, “Gặp Bác ở Pa-ri”, trong tập “Bác Hồ”, Nhà xuất bản Văn học, năm 1960.

Bấm trên máy tính để sang chương tiếp theo và bấm để quay lại chương trước


Đăng nhập để bình luận

Giới thiệu

Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Links

Liên hệ quảng cáo

  • Email: hoangforever1@gmail.com
  • Phone:
  • Skype: #
back to top