Hôm nay trời đã bớt lạnh, mặt trời hình như mọc sớm hơn các hôm khác. Đốc Cung và anh em Vân Hạc vừa mới lần lượt trở dậy, ánh nắng vàng nhạt đã lấp lánh in vào những chiếc lá bàng úa đỏ ở trước sân.
Quen lệ, thằng nhỏ nhà trọ nhanh nhảu đệ lên chỗ ngồi của khách một siêu nước sôi và bộ bàn chè chén mẫu.
Vân Hạc đương lúi húi đổ chè ra chiếc nắp bao và rẽ ràng trút vào chiếc ấm quần ẩm, ngoài sân bỗng có tiếng hỏi:
- Tôi tưởng các ngài còn ngủ, té ra đã dậy cả rồi.
- Hôm nay sao chư tiên sinh dậy sớm quá vậy?
Cả nhà đều ngẩng lên trông.
Trần Đức Chinh nghênh ngang lên thềm với một nụ cười tủm tỉm.
Đốc Cung nhận rõ anh ta đương có việc gì đắc ý, sau khi chào nhau khắp lượt, chàng hỏi:
-Cậu có tin đỗ tú tài đấy chứ?
Đức Chinh theo lời mời của Vân Hạc, ngồi vào trong ghế, rồi làm ra vẻ khiêm tốn:
- Ông nói lỡm nhau chi thế? Tú tài đâu đến phần tôi? Nếu tôi mà đỗ, thiên hạ còn ai hỏng nữa?
Đốc Cung cười kiểu chế nhạo:
- Cái đó không biết chừng... Học tài thi phận, cậu ạ. Nhưng nếu không có tin đỗ thì sao người cậu hôm nay lại thấy tươi hơn mọi hôm?
Đức Chinh vẫn đáp bằng giọng thật thà:
- Vì tôi mừng cho ông Hạc.
Đốc Cung vội hỏi:
- Cậu biết anh Hạc đỗ à?
- Vâng, có lẽ ông Hạc sẽ đỗ thủ khoa.
Vân Hạc buột miệng:
- Nếu quả như vậy, thì các quan trường năm nay đã biết chấm văn.
Rồi chợt nhớ ra trước mặt còn có Đoàn Bằng, Tiêm Hồng, chàng liền lảng sang ngách khác.
- Nhưng cậu nghe được tin đó ở đâu?
- Hôm qua thầy tôi có vào thăm quan tổng đốc, trong lúc nói về việc trường, ngài có cho biết như vậy. Vì tôi khoe ông Hạc là bạn với tôi cho nên thầy tôi giục phải đến đây sớm để báo tin mưng.
Hải Âu cũng hỏi:
- Vậy ngài có biết bao giờ thì xướng danh không?
- Cứ như thầy tôi nói lại, tin chắc cũng không còn lâu lắm. Bởi vì còn phải đợi "chỉ" trong kinh.
Đoàn Bằng ra ý nóng ruột:
- Thưa ngài, thế cụ lớn nhà dạy như thế nào?
- Thầy tôi nói rằng: sáng sớm hôm qua. vừa có mật tin từ trong trường ra báo quan tổng đốc cho biết rằng: việc trường đã xong hết cả, giải ngạch, cử nhân, tú tài cũng lấy xong rồi. Chỉ còn hai ông giải nguyên. á nguyên thì chưa quyết định. Là vì trong số hơn một trăm quyển được vào phúc hạch thì quyển của ông Hạc là tốt hơn cả, rồi đến quyển của ông Nguyễn Chu Văn.
Ông Hạc được hai "ưu" ngoại hai "ưu" nội và mười hai "bình", ông Văn được một "ưu" ngoại, một "ưu" nội và mười bốn "bình". Như thế thủ khoa đáng lẽ phải về ông Hạc vì đã hơn hẳn ông Văn hai "ưu" kìa mà. Nhưng mà ông Hạc mới hăm hai tuổi lại là chân trắng mà ông Văn thì đã bốn mươi nhăm tuổi lại đã hai khoa tú tài. Nếu lấy sự cao niên túc học làm trọng thì ông Văn cũng nên được đỗ thủ khoa. Quan chủ khảo và quan ngự sử đã tranh luận mãi về chỗ đó. Ý quan chủ khảo muốn để ông Văn ở trên vì ngài trọng người tôn niên. Nhưng quan ngự sử nhất định không nghe, ông này cho rằng: việc thi cử là thi bằng văn, không thi bằng tuổi, hễ mà văn hay thì phải đỗ trên, bất luận tuổi nhiều hay ít. Kết cục, hai ngài không ai chịu ai, ai cũng nhận cái lý của mình là phải. Vì thế các ngài mới phải làm sớ tâu về triều đình và gửi tất cả các quyển trong bốn kỳ của hai ông ấy vào đó, để tùy trong triều định đoạt.
Đức Chinh kết luận:
- Từ đây vào kinh, vừa đi vừa về, ít ra cũng phải ngoài hai chục ngày. Vả lại, sớ vào đến nơi, hoàng thượng xem rồi, lại còn giao cho triều thần bàn bạc nữa chứ. Như vậy, có lẽ phải mươi ngày nữa mới có "chỉ" ra...
Hải Âu ngắt lời:
- Không! Từ đây vào kinh, cả đi lẫn về chỉ hết độ hơn mười ngày là cùng. Bởi vì trong năm Gia Long thứ ba, trình hạn của phu chạy trạm đã có định rõ: từ Bắc thành đến kinh đô, việc gấp, phải chạy năm ngày cho tới. Người nào chạy được đúng hạn thì thưởng ba quan, quá hạn độ một hai ngày, thì phải phạt ba chục roi đòn. Việc thi bây giờ cũng là việc gấp, bao nhiêu quan trường, bao nhiêu học trò đều đương ngong ngóng chờ đợi kia mà. Lẽ nào phu trạm lại dám để chậm?
Cương Phượng tỏ ý kinh ngạc:
- Trời ơi, đường đất từ đây vào kinh, kể có nghìn dặm, thế mà chỉ đi năm ngày! Họ chạy nhanh bằng Luật Kinh chạy theo mặt trời. Nhưng chạy như thế lỡ ra phu trạm mệt quá, chết ở ngang đường thì làm thế nào?
Hải Âu đáp:
- Họ chết ở cung đường nào, thì nhà trạm ở cung đường ấy phải cắt người khác nhận lấy giấy má của họ mà chạy luôn đi. Trong luật đã có nói rõ như vầy.
Rồi thầy trở lại câu chuyện thi cử.
- Tôi chắc nay mai, chỉ của triều đình sẽ ra đến đây và vài ngày nữa thì sẽ có cuộc xướng danh.
Đức Chinh vừa cười vừa nhìn Vân Hạc:
- Thôi thì bao giờ xướng danh mặc lòng, ông cũng không phải nóng ruột, mười phần đỗ cả mười rồi. Chẳng thủ khoa thì á nguyên, quyết không xuống đến thứ ba.
Vân Hạc cũng cười:
Có đỗ thủ khoa thì tôi đỗ chơi cho hay, chứ đỗ á nguyên còn thú gì nữa?
Đốc Cung nói đùa:
- Thật là được thể dễ nói khoác… Tôi chỉ cầu Trời khấn Phật cho anh hỏng khoa này nữa, để xem anh sẽ nói với chị ấy ra sao.
Tường Loan chỉ vào Đoàn Bằng. Tiêm Hồng và hỏi Đức Chinh:
- Thưa ngài. còn hai ông này ra sao, ngài có biết tin gì không?
Đức Chinh lắc đầu:
- Tôi không được rõ vì không thấy thầy tôi nói chuyện. Nhưng chắc các ngài đỗ cả.
Mỗi người nói phiếm thêm mấy câu nữa, ấm chè vừa tàn. Đức Chinh cáo từ ra về.
Bây giờ ánh nắng đã xuyên qua lỗ cửa sổ, chếnh chếch xuống nền nhà. Hạt bụi xanh đỏ rối ni giờn nhau trong những luồng sáng thẳng vuông như chiếc tay thước Trong nhà đầy vẻ ấm áp của tiết tiểu xuân. Hải Âu cao hứng bảo với Đốc Cung:
- Hôm nay chúng mình phải đi ngoạn cảnh cái chứ. Bó gối ngồi nhà để ngong ngóng đợi ngày xướng danh hộ các ông ấy là cái nghĩa gì?
Đốc Cung chưa kịp trả lời. Hải Âu lại tiếp:
- Đã mười năm nay tôi không đặt gót đến đất Hà Nội. Không biết bây giờ cuộc dâu bể của các cảnh vật xứ này đã đi đến chỗ nào rồi…
Đốc Cung vừa cười vừa đáp:
- Thú thật với bác, tôi ở nhà luôn mấy hôm nay đã thấy tù cẳng lắm rồi. Bác tính còn gì khổ bằng cái thằng thi hỏng lại phải ở lại để đợi anh em xem bảng?
Hải Âu cũng cười và hỏi:
- Nhưng mà bác định đi chơi đâu giờ?
Tường Loan cướp lại:
- Tôi thấy các cụ vẫn nói phong cảnh hồ Tây đẹp lắm mà chưa được đến nơi. Hay là các ông lên chơi trên ấy cho tôi đi với?
Đoàn Bằng tán vào:
- Phải đấy, hôm nay trời ấm, có lẽ lên chơi hồ Tây cũng thú.
Rồi đó ai nấy đội khăn mặc áo, kéo thẳng lên nẻo cửa Bắc và rẽ sang đường Cổ Ngựa. Lúc ấy cây cối đã đương đổi lộc, quanh hồ như vẽ một cảnh tiêu sơ. Trên lớp cỏ héo ven đường, những chiếc lá đa vàng úa tơi bời rơi rụng. Trong khu giữa hồ, một đám sen tàn, xờ xạc lượt theo gợn sóng. Ngoài nẻo xa xa, mấy bông lau sậy trắng xóa, thi nhau đùa trước ngọn gió hiu hiu.Ngắm các cảnh vật trước mắt, Hải Âu tự thấy vô hạn bồi hồi.
Sau khi thăm quán Trấn Vũ, cả bọn đủng đỉnh sang chùa Trấn Quốc. Bây giờ mặt trời đã cao, bầu trời rất sáng sủa, bằng mây thăm thẳm lồng xuống đáy nước, làm cho cảnh hồ càng thêm mông mênh. Hải Âu thơ thẩn đi lại trước nhà chùa hồi lâu, thình lình thầy chạy đến chỗ Đốc Cung, Vân Hạc, vừa cười vừa nói:
- Tôi định làm một bài hoài cổ, nhưng mới nghĩ được bốn câu thì hết mất tứ, bác Cung và các chú tiếp hộ.
Đốc Cung liền bảo:
- Bốn câu của bác ra sao?
Hải âu đọc:
"Cáo trắng trâu vàng chuyện có không?
"Đêm trăng bao độ rước thuyền rồng?
"Nào khu yếm xống hàng quan thị?
"Đâu chỗ ca, chèo bóng gái cung?...
Đốc Cung tỏ vẻ bông đùa:
- Hay thì hay thật. Nhưng câu thứ ba chua lắm.
Tường Loan ngơ ngẩn:
- Thế là Trấn Quốc tự hoài cổ, hay là Tây hồ hoài cổ?
Hải Âu đáp:
- Tây hồ hoài cổ đấy chứ. Nếu Trấn Quốc tự hoài cổ thì sao cho đắt?
Tường Loan càng ngạc nhiên:
- Vậy thì mấy chữ "yếm xống", "ca chèo" là ý thế nào?
Hải âu cắt nghĩa:
- Đó là tôi muốn nói về chuyện chúa Trịnh. Trong lúc họ Trịnh còn thịnh. hồ Tây vẫn còn là một nơi thắng thưởng, giống như vườn Phù dung của Đường Minh Hoàng, chùa Trấn Quốc này, đã bị lập thành hành cung, mỗi tháng nhà chúa ra chơi chừng vài ba lần. Cung nữ trong phủ, ngày thường đã phải may sẵn hàng nghìn đèn lồng toàn bằng gấm vóc là lượt, thêu thùa rất khéo, khi nào chúa sắp ra. lính tráng phải lĩnh những đèn lồng ấy đem treo khắp các ngọn cây, rồi các quan thị từ hạng tam phẩm trở lên, đều phải dọn quán bán hàng ở khắp bờ hồ. Trong quán có đủ các thức phấn, sáp, quà, bánh, đồ ta, đồ tàu... Rồi chính những vị "ông cả không xâu đó lại phải mang yếm, mặc xống, chít khăn mỏ quạ: giả làm con gái bán hàng và ngồi chầu chực trong quán một đêm. Nhà chúa ở phủ ra hồ, thường thường vào cuối canh hai. Ngài ngự một chiếc thuyền rồng rất lớn có nhiều thuyền của các quan thị tụng đi theo. Trong thuyền có đem rất nhiều cung nữ và đồ chè chén. Thuyền ra giữa hồ, nhà chúa bắt đầu uống rượu, cung nữ kẻ đàn người hát, tiếng hát tiếng đàn phải rất lả lơi. Người nào cần dùng món gì, cứ việc cho thuyền ghé vào gần bờ, rồi lên mua ở các quán của bọn quan thị. Trong lúc mua bán, hái bên tha hồ cười đùa chớt nhả. hát vè hát ví y như trai gái nhà quê. Câu thứ tư, chỉ về chuyện đó.
- Vậy còn mấy chữ "cáo trắng", "trâu vàng"?
- Đấy là tôi theo điển tích của sách Trích quái và sách Địa cảo. Trích quái chép rằng: ở đời thượng cổ, hồ Tây còn là một trái núi nhỏ. Trên núi có con cáo trắng chín đuôi thường hay hóa ra yêu quái làm hại dân cư. Ông thần Long đô đem việc ấy tâu với Thượng đế, Thượng đế cả giận, liền sai Long vương giết con yêu đó. Long vương vâng lệnh, đem các thủy tộc ngược dòng sông Nhị tiến lên nã bắt. Trái núi đó tức thì sụt xuống thành ra cái hồ. Còn sách Đìa Cảo thì nói: trong núi Lạn Kha có con trâu vàng. Khi nghe tiếng chuông ở quán Trấn Vũ, con trâu ấy tưởng là tiếng mẹ, vội vàng lồng ra, rồi ẩn vào trong hồ này. Ấy là những chuyện hoang đường như thế, mà từ xưa đến nay, ai ai cũng tin thì có lạ không?
Rồi Hải Âu quay hỏi bọn Đốc Cung:
- Bác và các chú đã nghĩ được câu gì chưa?
Đốc Cung đáp:
- Tôi mới nghĩ được hai câu như vầy:
"Xờ xạc đầu vời sen rạc lá,
"Phất phơ cuối bãi, sậy phơi bông.
Hải Âu khen được và bảo Vân Hạc:
- Chú thử tiếp nốt xem sao.
Vân Hạc ngẫm nghĩ giây lát rồi nói:
- Thế thì thế này:
"Lâu đài Lê, Trịnh tìm đâu tá?
Bảng lảng rêu xanh bóng ác hồng".
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận