Andrew đã trải qua một đêm tồi tệ. Bay phía trên bia mộ của mình ngắm nhìn xa lộ, lòng rối bời, cho đến tận khi Valérie tới thăm anh và khi rốt cuộc anh cũng choàng tỉnh, người vã mồ hôi, chẳng có gì thú vị.
Điều khiến anh bối rối, đó là anh đã thuộc lòng diễn biến cơn ác mộng đó, nhưng lần nào cũng để mặc lòng mình sửng sốt, khi anh nhìn thấy cô bước xuống từ chiếc break và tiến lại phía anh.
Tại sao cái đầu óc gàn dở của anh lại để mặc anh không nhận ra điều đó ngay, còn khi thức dậy anh lại bị ám ảnh bởi cái điều cô đã đến làm trên nấm mồ anh?
Lò xo dưới xô pha khiến anh đau lưng muốn chết và rốt cuộc anh phải thừa nhận rằng có lẽ đã đến lúc trở về nhà.
Khi cho Suzie Baker mượn phòng ngủ, anh đã hy vọng chuyến lưu lại ngắn ngày của cô sẽ làm đảo lộn ký ức về nơi đó, rằng mùi hương của cô sẽ thấm lại đó, đồng thời xóa hết một mùi hương khác. Có lẽ không thể nào diễn tả chính xác điều anh nghĩ trong đầu, nhưng nó đại khái là như vậy.
Anh nghe tiếng Simon ngáy đều đều phía bên kia tường phòng. Anh lặng lẽ đứng dậy và lấy một chai Fernet mà anh giấu trong một bình hoa. Cánh cửa tủ lạnh kêu cót két rõ thành tiếng, vậy nên anh từ bỏ việc lấy Coca, và tu từng ngụm lớn. Món đồ uống này có vẻ đắng hơn, nhưng chất cồn khiến anh thấy dễ chịu.
Anh tới ngồi trên thành cửa sổ và suy nghĩ. Có gì đó khiến anh bất an.
Cuốn sổ của anh đang nằm trên bàn làm việc của Simon. Anh mở hé cửa phòng và chờ cho mắt mình quen với bóng tối.
Simon nói mớ trong lúc ngủ. Andrew rón rén bước khẽ như mèo. Trong lúc tiến lại gần chiếc bàn, anh nghe tiếng cậu bạn lẩm bẩm rõ thành tiếng: “Anh sẽ mãi yêu em, Kathy Steinbeck”.
Và Andrew đành cắn chặt lưỡi để khỏi phì cười.
Anh mò mẫm tìm cuốn sổ, nhón lấy nó bằng đầu ngón tay rồi lại len lén đi ra hệt như lúc bước vào.
Trở lại phòng khách, anh chăm chú đọc lại các ghi chép của mình và rốt cuộc đã hiểu điều mà anh bỏ sót. Chiếc máy bay Suzie Baker đã nói với anh là chiếc nào và làm sao kiếm cho ra bản danh sách hành khách đi chuyến đó?
Biết là không thể ngủ lại được nữa, anh thay đồ, viết lời nhắn cho Simon và để nó trên bàn bếp rồi ra khỏi nhà.
Gió Đông Bắc đang thôi vào thành phố, cuốn theo trong từng luồng lạnh buốt những cuộn hơi nước thoát ra từ các miệng cống. Andrew dựng cổ áo lên và bắt đầu bước đi trong màn đêm giá buốt. Anh vẫy một chiếc taxi trên đường Hudson và xuống xe trước tòa soạn.
Cuộc họp chốt cho ấn bản đầu tiên của buổi sáng đã kết thúc từ lâu, để lại phòng biên tập trống trải. Andrew chìa thẻ của anh cho người gác đêm và lên tầng. Anh đang bước về phía bàn làm việc của mình thì nhìn thấy thẻ phóng viên của Freddy Olson, bị kẹt dưới bánh lăn của chiếc ghế xoay. Chắc là nó bị rơi ra từ túi quần sau. Andrew nhặt nó lên và thẻ ngay vào máy hủy tài liệu. Anh ấn nút và nhìn chiếc thẻ biến mất dần trong khe máy cùng tiếng lạo xạo của giấy rách khiến anh thấy vui tai. Rồi anh ngồi xuống trước màn hình máy tính.
Andrew nhanh chóng tìm được lại lịch của hai chiếc máy bay đã tan xác trên ngọn núi kia và sự trùng hợp của hai vụ tai nạn khiến anh đặt câu hỏi. Suzie đã tâm sự với anh là cô đi leo núi vào tháng Giêng, đúng một dịp kỷ niệm. Andrew viết vào sổ tay tên chiếc Kanchenjunga và điểm đến cuối cùng mà nó không bao giờ tới được. Rồi anh viết một thư yêu cầu theo đúng mẫu tới công ty hàng không để xin danh sách phi hành đoàn.
Lúc này là 5h sáng tại New York, 15h 30 phút tại New Delhi. Ít phút sau, anh nhận được phúc đáp với yêu cầu anh chuyển cho họ bản copy thẻ phóng viên và lý do cho lời thỉnh cầu, anh đã làm theo ngay lập tức. Andrew chờ trước màn hình máy tính, nhưng người liên lạc với anh hẳn đã đi xin chỉ thị từ cấp trên. Anh nhìn đồng hồ, do dự và rốt cuộc đã nhấc điện thoại lên.
Dolorès Salazar dường như không còn bất ngờ với chuyện bị dựng dậy khi trời còn chưa sáng vì một cuộc gọi từ Andrew.
- Filofax thế nào?
- Anh gọi điện cho tôi lúc 5h rưỡi sáng để hỏi tin tức về con mèo của tôi sao, Stilman? Tôi có thể làm gì cho anh? Dolorès Salazar trả lời, miệng ngáp ngắn ngáp dài.
- Cái việc cô làm giỏi hơn tất thảy mọi người.
- Anh trở lại làm việc rồi đấy à?
- Có thể, điều đó sẽ phụ thuộc vào thứ cô tìm thấy giúp tôi.
- Hãy bắt đầu luôn bằng việc nói cho tôi biết thứ anh đang tìm.
- Một danh sách hành khách.
- Tôi có một đầu mối ở Cục hàng không dân dụng, lúc nào tôi cũng có thể hỏi thử. Số hiệu chuyến bay và ngày khởi hành?
- Air India 101, 24 tháng Giêng 1966, Delhi-Luân Đôn, máy bay bị tan xác trên lãnh thổ Pháp trước khi hạ cánh được xuống sân bay trung chuyển tại Genève. Tôi muốn tìm xem có người nào mang họ Baker lên máy bay không.
- Nhân tiện anh không muốn tôi tìm luôn tên của bếp trưởng tàu Titanic giúp anh sao?
- Như thế nghĩ là cô đồng ý giúp tôi?
Dolorès đã gác máy. Andrew khóa máy tính rồi đi xuống quán cà phê.
*
Dolorès Salazar gọi lại cho Andrew ba tiếng sau đó, mời anh tới văn phòng cô để nói chuyện.
- Cô có nó rồi chứ?
- Tôi từng làm anh thất vọng sao, Stilman? Cô vừa nói vừa chìa cho anh một tập hồ sơ.
- Làm sao cô có được nó trong khoảng thời gian ngắn như vậy?
- Các báo cáo của Văn phòng điều tra tai nạn để chế độ công khai, báo cáo liên quan đến chiếc máy bay anh tìm đã được đăng trên Công báo của Pháp ra ngày 8 tháng Ba 1968. Có thể truy cập vào đó từ bất kỳ máy tính nào. Lẽ ra anh đã có thể tự mình tìm được nó nếu như mắt anh vẫn còn tròng.
- Tôi không biết phải cảm ơn cô thế nào, Dolorès, Andrew vừa đáp vừa bắt đầu xem xét danh sách toàn họ tên.
- Không phải mất công làm gì, tôi đã soi kỹ danh sách đó rồi, không có ai là Baker đi chuyến đó.
- Thế thì tôi đâm vào ngõ cụt rồi, Andrew thở dài.
- Giá mà anh nói cho tôi biết thứ anh đang tìm kiếm thật sự thay vì chưng cái mặt dài thượt này ra.
- Tìm hiểu danh tính thật sự của một người.
- Tôi muốn biết tại sao?
Andrew tiếp tục đọc lướt các trang của tập tài liệu.
- Câu hỏi ngớ ngẩn…, Dolorès vừa càu nhàu vừa nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính. Anh đang mất thời gian đấy, tám mươi tám trang không còn một chỗ nào chưa được động tới. Tôi đã đọc trên tàu điện và đọc lại trên đường tới đây. Không có gì lại thường. Nếu anh quan tâm đến học thuyết âm mưu bao phủ quanh tấn thảm kịch này, tôi cũng đã nghiên cứu vấn đề giúp anh, nhưng tôi thấy dường như đó là điểm mù mờ duy nhất.
- Học thuyết gì?
- Trong số hành khách có một người phụ trách chương trình hạt nhân của Ấn Độ. Có nguồn tin nhắc đến chuyện tên lửa bắn ra từ núi, và cả sự nguyền rủa nữa, vì một chiếc máy bay khác của hãng này cũng đã chịu chung số phận mười sáu năm trước đó, và tại chính địa điểm đó.
- Đúng, tôi đã đọc được chuyện đó. Phải nói là sự trùng hợp của hai vụ rơi máy bay khiến ta phải bối rối.
- Quy luật thống kê đôi khi là như vậy đấy. Như một gã nào đó trúng số hai lần và các vụ cá cược sẽ được dàn xếp, tuy nhiên tỷ lệ may mắn của hắn luôn ngang bằng với người khác ở mỗi lần quay số, không phải sao? Liên quan đến chuyến bay Air India 101, tất cả những giả thiết trước đó đều không đứng vững. Thời tiết khi đó rất xấu, nếu người ta muốn thủ tiêu nhân vật kỹ sư hạt nhân đó thì lại đơn giản hơn nhiều so với việc tiêu diệt một chiếc máy bay giữa cơn bão tuyết.
- Còn có hành khách nào đáng quan tâm trên chuyến bay này không?
- Anh định nghĩa giúp tôi cái mà anh gọi là đáng quan tâm?
- Tôi không biết nữa.
- Không có người Mỹ nào. Vài người Ấn, người Anh, một nhà ngoại giao, một số người như anh, như tôi đã không bao giờ tới được nơi cần đến. Thôi được rồi, anh Stilman, giờ anh nói cho tôi biết cái người mang họ Baker đó là ai hoặc là anh hãy để tôi giúp các phóng viên đồng nghiệp của anh đang có những việc nghiêm túc giao cho tôi? Anh chàng Olson bạn anh chẳng hạn, anh ta đang cần tôi giúp.
- Cô nói điều đó chỉ để chọc tức tôi hả, Dolorès?
- Có thể.
- Suzie Baker.
- Cô ta từng đi chuyến đó à?
- Không, nhưng ai đó trong gia đình cô ta hẳn đã có mặt trên chuyến bay đó.
- Cô ta đẹp chứ, cô Suzie Baker ấy?
- Tôi không biết, có thể.
- Không ư, tôi đang mơ sao! Anh đang đóng vai chàng Robin Hood tốt bụng, nhưng anh đây lại không biết. Nếu cô ta nhan sắc tầm tôi, anh hẳn vẫn sẽ dựng một cô đồng nghiệp dậy vào lúc tờ mờ sáng chứ?
- Không do dự chút nào, với lại cô vô cùng quyến rũ mà, Dolorès.
- Tôi xấu xí, và tôi mặc xác chuyện đó, tôi còn nhiều thế mạnh khác trong đời. Công việc của tôi, ví dụ thế. Tôi là một trong những nhân viên tư liệu giỏi nhất nước này. Anh không kéo tôi ra khỏi giường vào sáng sớm để mang bánh sừng bò cho tôi, phải không? Những phụ nữ như tôi không phải kiểu anh thích.
- Thôi nào Dolorès, hãy thôi nói với tôi những điều vô nghĩa đó, cô đẹp lắm.
- Đúng, như món mì spaghetti xốt bò bằm Bolognese. Anh biết tại sao tôi rất quý mến anh không, Stilman? Vì anh không biết nói dối và tôi thấy điều đó đáng quý. Giờ thì anh biến đi, tôi còn nhiều việc phải làm. À, điều cuối cùng này nữa, vừa rồi anh đã hỏi tôi là anh có thể cảm ơn tôi bằng cách nào?
- Mọi điều khiến cô vui.
- Hãy tham gia trở lại các cuộc họp trên phố Perry, anh cần chúng, lá gan của anh cũng vậy.
- Cô vẫn tới đó sao?
- Mỗi tuần một lần. Ba tháng nay tôi không động tới một giọt rượu nào.
- Đừng nói với tôi là cô đã có lời thề nguyện sống điều độ bên giường bệnh của tôi đấy nhé.
- Ý tưởng kỳ cục gì vậy! tôi vui khi thấy anh đã ra viện, Stilman, và còn vui hơn khi có thể làm việc trở lại cùng anh, dù có hơi ngắn ngủi. Tôi nóng lòng muốn thấy anh lao vào một đề tài thật sự. Vậy hẹn anh thứ Bảy, phố Perry nhé?
Andrew lấy tài liệu và đóng cửa phòng làm việc của Dolorès Salazar mà không nói thêm lời nào.
*
Một tiếng sau, một nhân viên tiệm cà phê đặt một giỏ bánh Vienne lên bàn của Dolorès Salazar. Không có lời nhắn nào kèm theo, nhưng cô nhân viên phòng tư liệu không mảy may nghi ngờ nguồn gốc món quà.
*
Cuối buổi sáng, Andrew nhận được một tin nhắn trên điện thoại di động.
“Tôi không gặp anh ở thư viện cả hôm qua lẫn sáng nay. Anh vẫn trong thành phố chứ? Nếu còn, hẹn 12 rưỡi trưa nay tại quán Frankie’s, tôi đang cầm chìa khóa nhà anh”.
Và Andrew trả lời “13h, quán Mary’s”, thuần túy vì thói thích chống đối.
*
Andrew treo áo khoác lên giá. Suzie đang chờ anh ở quầy bar. Người phục vụ dẫn họ tới tận bàn đã đặt. Andrew đặt chình ình lên bàn tập tài liệu mà Dolorès đã giao cho anh.
- Xin lỗi vì đã làm cô phải đợi, anh nói trong lúc ngồi xuống.
- Tôi vừa đến thôi, anh tới đây thường xuyên à?
- Đây là căng tin của tôi.
- Anh là người của những thói quen, điều này khá kỳ lạ đối với dân làm báo.
- Khi không đi công cán, tôi cần sự ổn định.
- Tôi nghi ngờ điều đó đấy, nhưng khá thú vị. Vậy thì, chắc hẳn có hai Stilman, một chuột nhà và một chuột đồng?
- Cảm ơn vì hình ảnh so sánh. Cô muốn gặp tôi là để nói chuyện về thói quen ăn uống của tôi sao?
- Tôi muốn gặp anh là vì niềm hân hạnh được đi cùng anh, để cảm ơn anh vì lòng hào hiệp và để trả chìa khóa nhà cho anh. Nhưng không có gì ép buộc chúng ta cùng ăn trưa, tôi thấy anh có vẻ không được thoải mái.
- Tôi kém ngủ.
- Thêm một lý do để anh trở về nhà, cô vừa nói vừa đưa chìa khóa cho anh.
- Giường nhà tôi êm ái đến thế sao?
- Tôi không biết, tôi ngủ dưới đất.
- Cô sợ chấy rận à?
- Tôi ngủ dưới đất từ khi còn là một cô bé, tôi vẫn luôn ác cảm với giường. Điều đó khiến mẹ tôi phát khùng. Nhưng đến điều trị trên xô pha của bác sĩ tâm lý thì lại quá đắt, rốt cuộc bà ấy cũng phải nhắm mắt làm ngơ.
- Sao lại có chứng sợ giường như thế này?
- Tôi cảm thấy an toàn hơn khi ngủ bên dưới cửa sổ.
- Cô là một con người kỳ lạ, cô Baker ạ. Thế còn thầy hướng dẫn của cô, anh ta cũng ngủ với cô dưới đất sao?
Suzie nhìn Andrew và cam chịu đòn tấn công mà không phản ứng lại.
- Với Shamir thì mọi chuyện lại khác, tôi không thấy sợ nữa, cô đáp, mắt nhìn xuống.
- Điều gì kiến cô khiếp sợ với ý nghĩ ngủ phía trên mặt đất? Tuy nhiên, nếu nghĩ cho kỹ, tôi mà kể cho cô nghe những ác mộng của tôi…
- Còn anh, điều gì khiến anh khiếp sợ đến mức luôn kè kè hàng nóng theo người?
- Người ta đã đâm tôi không khác gì chọc tiết lợn. Sau vụ đó, tôi đã mất đi một quả thận, và cuộc hôn nhân của mình. Cả hai nỗi mất mát đó đều cùng vì một kẻ.
- Kẻ sát hại anh vẫn chạy nhảy ngoài kia?
- Tôi không chết, như cô có thể thấy. Đúng, cái kẻ đã gây ra chuyện đó vẫn được tự do, trong khi chờ đợi một cuộc dẫn độ sẽ không bao giờ xảy ra. Không đủ bằng chứng, tôi là nhân chứng duy nhất có thể vạch mặt kẻ đó. Và nếu có kiện cáo gì, bất cứ luật sư nào cũng sẽ đặt nghi vấn lời nói của tôi và sẽ quy kết tôi hãm hại kẻ đó.
- Động cơ của kẻ đó là gì?
- Tôi đã truy lùng cha của người đó, ông ta sẽ sống nốt những ngày còn lại trong tù, và tôi đã hủy hoại tên tuổi của ông ta.
- Vậy thì, tôi có thể thông cảm cho người đó, danh dự của một gia đình, đó là điều thiêng liêng. Ngay cả khi Ortiz là loại người rác rưởi thì với cô con gái, người cha cũng là điều thiêng liêng.
- Theo tôi biết thì tôi chưa cho cô biết tên ông ta.
- Một người xa lạ cho tôi mượn chìa khóa nhà anh ta, anh không trách cứ tôi vì đã google về anh chứ? Tôi đã đọc bài báo của anh và chuyện xảy đến với anh, chuyện đó đã khiến tôi lạnh hết cả sống lưng.
- Khả năng ứng phó của cô nhanh nhạy đến kinh ngạc đấy. Vậy thì những câu hỏi đó còn ích lợi gì nếu cô đã biết tất cả?
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.

Đăng nhập để bình luận