Từ một đứa bé đang sống trong một ngôi nhà bốn từng, một cái vườn rộng, một khu xưởng thợ to lớn – một nơi đã từng được tôi tưởng tượng là thế giới riêng rẽ của Tạc Dăng – đến hôm nay lại phải chui rúc ở căn nhà chật hẹp, ẩm thấp, tối tăm, dơ bẩn nằm trong con hẻm của đường Năng-xy này, tôi biết không còn gì hy vọng giữ lại những nguồn vui đã qua.
Thằng Cu Nghé đã xa tôi, bây giờ đến lượt con két xa tôi, còn ai nữa mà chơi với tôi chứ ?
Tôi đã xa tất cả và tất cả đã xa tôi.
Cha tôi đưa chúng tôi về căn nhà đó, tất cả đều có cảm tưởng như bị xô đẩy vào ngục tù.
Bộ mặt tráng lệ của Saigon đã che đậy những ổ chuột và nhà tôi là một trong những ổ chuột đó. Cái sân sũng nước, cái gác ọp ẹp, vách ván, mái tôn, không cửa hậu, không cửa sổ, ra vào chỉ độc có cửa chính như chui qua cửa hang. Người hàng xóm ở đối diện là anh thợ đóng giày, mình mẩy lúc nào cũng nhầy nhụa mồ hôi ; và bên cạnh là tiệm chạp phô ở đối diện với cái giếng bơm nước…
Thực là kỳ cục, sự sắp đặt nhà cửa trong xóm này không hề theo một tổ chức, trật tự nào cả, ai muốn làm gì thì làm. Nhiều cái nhà lấn hết nửa con hẻm, thành thử con hẻm càng ngày càng chật và quanh co.
Hôm mới đến, cảm giác đầu tiên của tôi là như lạc vào mê hồn trận. Tôi băn khoăn không biết làm sao nhớ hết những lối đi ngoằn ngoèo và những số nhà phức tạp, dài dòng, chồng chất số này trên số kia.
Mấy đứa trẻ quanh xóm, thấy chúng tôi, mắt đứa nào đứa nấy thao láo, miệng mồm há hốc, đứng ở cổng nhìn vào như nhìn một đoàn xiếc dạo… Ôi, kể làm sao cho hết những nỗi bực mình. Đã thế, khi bà già An dọn dẹp dưới bếp, bỗng hét lên :
- Ối ! Ối ! Gián !
Bà làm như cháy nhà đến nơi không bằng, nhưng cả nhà chỉ nghe hét chứ không nghe nói vì tiếng hát ở máy thu thanh khắp nơi đã làm át đi. Tôi không hiểu họ thưởng thức âm nhạc bằng kiểu gì mà lạ vậy ? Ở đâu cũng mở máy lớn, léo nhéo suốt ngày, chỗ thì vọng cổ, chỗ thì tân nhạc, chỗ thì nhạc ngoại quốc,,, Đúng là một cuộc đại hoà tấu “Tả-Pí-Lù”, đinh tai, nhức óc và điên đầu.
Tuy nhiên, những thứ ấy, lâu dần rồi cũng quen đi, chứ không như loài gián, cái loài thực khó chịu, bay đáp vào mặt, vào tay , nhột nhạt bắt rởn da.
Và đúng như bà già An đã phát giác, nhà tôi bị nạn gián khủng khiếp ấy. Chúng nó xuất hiện khắp các ngõ ngách, trên tường, trong hộc tủ, trên bếp, trên cũi đựng đồ ăn, mặc dù bà An đã cố gắng đập chết rất nhiều và nhét kín lỗ then cửa là nơi chúng nó trú đóng để làm những cuộc hành quân phong tỏa qui mô. Nhưng vô ích, chúng nó chỉ chịu thua một hôm. Hôm sau chúng nó vẫn tái diễn, vẫn kiếm cách bò ra và bay lung tung, không một ai trị được.
Cứ thế, chúng tôi bỗng trở thành những tay sát sinh rất cừ, thấy gián là giết, ấy vậy mà chúng nó vẫn còn, không hiểu chúng nó kéo nhau từ đâu đến mà nhiều đến thế. Tôi ước gì có một bầy thạch sùng để nghinh chiến với chúng nó.
Tôi nghĩ, loài người thường tự hào đóng vai bá chủ nhưng không diệt được loài gián là nghĩa làm sao ?
Tôi bắt đầu có ác cảm với Saigon vì loài gián ấy và từ đấy tôi có ấn tượng xấu về Saigon vì dân Saigon thường chế giễu chúng tôi nói con cá rô ra con cá “gô”.
Họ bất lịch sự quá. Họ đã làm chúng tôi thay đổi nếp sống xưa cũ. Buổi sáng mới 5 giờ đã om sòm tiếng rao quà vặt và tối lại họ thức quá khuya, xe cộ chạy ầm ĩ, guốc dép khua động ồn ào, chó sủa suốt đêm. Tội nghiệp nhất là bà già An, mỗi khi đi chợ đều bị trả hớ. Họ nói thách không biết đâu mà mò giá cả.
Tôi luôn luôn có cảm giác là mọi người đang rình rập để hại nhau. Mỗi người đều mang một bộ mặt xa lạ, đáng ghét. Có lẽ họ biết chúng tôi ở dưới quê mới lên và vì thế mà chúng tôi buồn.
Chúng tôi sống trong sự cô độc đó. Thỉnh thoảng, gia đình chúng tôi rủ nhau xuống bờ sông Saigon hóng gió, đi dọc theo bờ sông và hướng về phía Châu Đốc.
Mẹ tôi buồn bã nói :
- Chỉ có xuống đây mới thấy gần gũi quê hương mình trong chốc lát mà thôi. Nhưng thực ra, những lần đi chơi như vậy cũng chẳng đem lại thú vị gì cho ai cả.
Mẹ tôi vẫn giữ nét buồn bã.
Cha tôi thì mang thái độ hằn học.
Anh Giác tôi thì khóc, không biết anh ấy khóc vì nhớ nhà hay vì sợ đám đông đang vây bọc chung quanh, toàn là người lạ.
Còn tôi thì muôn đời vẫn lủi thủi nối gót theo sau mọi người, không dám ngước mặt lên – không hiểu sao ở đây, mỗi khi ra đường tôi cảm thấy thèn thẹn. Tôi mang cái mặc cảm chúng tôi đều dốt nát, quê mùa và nghèo hèn. Cái gì đối với tôi cũng bí mật, nhưng không dám tò mò hỏi ai cả.
Tôi sợ hỏi ra chẳng những không được giải thích mà còn bị chế riễu kiểu bà già An hỏi mua chai bia liền bị người chủ quán hỉnh mũi lên cười, ý hẳn người chủ quán chỉ biết la-ve chứ không biết bia, trừ thứ bia-lây. – Ôi, thật là nhiêu khê, đến cái tên món đồ cũng không biết gọi thế nào cho đúng.
Thôi thì đành im lặng vậy.
Nhưng im lặng rồi cũng nguy hiểm như lần tôi vào tiệm hớt tóc, người thợ hỏi : - Cậu muốn hớt kiểu gì ?
Tôi lúng túng và không trả lời.
Cuối cùng người thợ cũng phải chịu khó hớt xong cái tóc của tôi và kết quả là đầu tôi trọc như một anh lính Nhựt.
Tôi ngượng chín cả người.
Thế rồi, một tháng sau, bà già An bỗng lâm bệnh. Khí hậu ở Sàigòn hình như không phù hợp với những người già cả và bà già An bệnh mỗi ngày mỗi nặng, ai cũng sợ bà chết, nhưng không phải sợ bà chết rồi sẽ không kiếm đâu ra người giúp việc, chúng tôi chỉ sợ là không có đất để chôn.
Ở Sàigòn này, sống cũng khổ mà chết cũng khổ. Người sống kiếm không ra nhà ở, có nhiều gia đình phải ở chung một nhà với những gia đình khác. Mỗi lần nhìn vào một cái nhà được ngăn làm nhiều căn phòng bằng những tấm vải nhựa, trong ấy lúc nhúc trẻ con, người lớn, đồ vật chồng chất ngổn ngang, tôi có cảm tưởng loài người vẫn còn sống ở thời kỳ bán khai. Tuy nhiên, thế vẫn còn sướng hơn người chết. Mỗi lần có người chết là y như mỗi lần phải chạy áp-phe để tìm một lỗ huyệt, bất kể tốt xấu, nhiều khi đào huyệt đúng ngay cái mả cũ, ván hòm hãy còn nguyên nên mùi tử khí hãy còn xông lên hăng hắc.
Trường hợp này đã làm tôi tủi thân vì nghĩ một ngày nào đó mình cũng phải chịu rơi vào số phận đó, và chắc mọi người cũng đều nghĩ như tôi vậy nên tức tốc chở bà già An về quê mặc dù bà ta rất mến mẹ tôi.
Hôm đưa bà An xuống tàu về Châu Đốc, bà cứ nằng nặc đòi ở lại và hứa sẽ không chết. Bà An làm như sự chết sống đều do bà quyết định không bằng. Ấy vậy mà bà An không chết thực, dù bà không được ở lại với chúng tôi và về đến Châu Đốc được ít lâu thì bà có chồng. Nghe đâu vợ chồng bà An phải sống chật vật lắm. Nghe vậy, tôi càng thương bà ta nhiều hơn.
Lúc nào tôi cũng nhớ đến bà An. Sự vắng mặt của bà An trong gia đình chúng tôi không như tôi phải xa thằng Cu Nghé nên ai cũng luyến tiếc, nhắc nhở. Vả nữa, bà An đi rồi là mẹ tôi phải lo việc nấu nướng, suốt ngày quanh quẩn trong bếp, tay chân đen đủi, không còn thì giờ săn sóc tôi nữa.
Còn anh Giác thì phải đảm đang công việc lặt vặt trong nhà. Cha mẹ tôi sai bảo anh đủ chuyện, giao cho anh cái thúng nho nhỏ, bảo bưng đi mua thứ này thứ nọ và lẽ dĩ nhiên là anh vừa đi vừa khóc. Tôi trông anh đần độn thêm ra và bắt đầu từ đó, chắc chắn là anh không có một phút vui sướng nào.
Cha tôi thấy anh sụt sùi mãi lại đâm bực. Ông gắt gỏng, đánh đập anh y như đối với một đứa con ghẻ trắc nết nên bị hất hủi.
- Giác ! Giác ! Ông hét lên. Ngu ơi là ngu. Sao mày ngu thế ? Đồ vô tích sự…
Do đó, mỗi khi thấy cha tôi là anh đã khiếp sợ, tìm cách lẩn trốn, cố giữ nước mắt không trào ra, nhưng càng cố gắng như thế trông anh càng thiểu não hơn và trở nên lừng khừng, thảm hại.
- Này Giác ! – Một hôm mẹ tôi gọi. Hôm đó mọi người đang ngồi vào bàn ăn khi trong bình chưa chế nước – Con chịu khó chạy xuống bếp xách ấm nước chế vào bình để tí nữa ăn xong có nước uống, đi con !
Truyện Hoàng Dung, truyện dịch, truyện chữ... nơi bạn đọc những truyện chất lượng nhất. Đọc truyện là thỏa sức đam mê.
Đăng nhập để bình luận